Nghiên cứu: Research On Green Finance And Green Development Based Eco-Efficiency And Spatial Econometric Analysis
Current blog Post: Nghiên cứu về Tài chính Xanh và Phát triển Xanh Dựa trên Hiệu quả Sinh thái và Phân tích Kinh tế lượng Không gian
Giới thiệu
Nghiên cứu này, được thực hiện bởi Ye, T., Xiang, X., Ge, X., và Yang, K. và công bố trên tạp chí Sustainability năm 2022, số 14, trang 2825, đi sâu vào mối quan hệ phức tạp giữa tài chính xanh và phát triển xanh ở Trung Quốc. Trong bối cảnh Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, nghiên cứu này tập trung vào việc làm thế nào tài chính xanh có thể thúc đẩy phát triển xanh để hỗ trợ xây dựng văn minh sinh thái. Bài viết sử dụng mô hình SBM siêu hiệu quả để đánh giá hiệu quả sinh thái của 30 khu vực hành chính cấp tỉnh ở Trung Quốc đại lục từ năm 2007 đến năm 2019. Đồng thời, một hệ thống đánh giá chỉ số tài chính xanh được xây dựng để đo lường mức độ phát triển tài chính xanh trong khu vực. Sử dụng các mô hình kinh tế lượng không gian, nghiên cứu này điều tra tác động của tài chính xanh đối với phát triển xanh, vai trò trung gian của đổi mới công nghệ xanh và sự khác biệt giữa các khu vực.
Cơ sở lý thuyết và Giả thuyết nghiên cứu
Tác động trực tiếp của tài chính xanh đối với phát triển xanh
Nghiên cứu lập luận rằng tài chính xanh có thể thúc đẩy phát triển xanh thông qua ba cơ chế chính:
- Hỗ trợ tài chính: Tài chính xanh cung cấp nguồn vốn quan trọng cho các dự án xanh, kiểm soát ô nhiễm và phục hồi sinh thái. Levine (2005) đã chỉ ra rằng hệ thống tài chính có chức năng cải thiện rủi ro, thúc đẩy thu thập thông tin và phân bổ nguồn lực.
- Phân bổ nguồn lực: Tài chính xanh hướng dòng vốn từ các ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao sang các ngành công nghiệp xanh, công nghệ cao, giúp tối ưu hóa cơ cấu công nghiệp (Bai và cộng sự, 2006).
- Hướng dẫn và khuyến khích: Các chính sách và quy định hỗ trợ tài chính xanh khuyến khích các doanh nghiệp chủ động điều chỉnh hoạt động sản xuất và nâng cao năng lực phát triển xanh.
- Khắc phục các khuyết tật thị trường: Ô nhiễm môi trường tạo ra các yếu tố bên ngoài có thể dẫn đến khuyết tật thị trường. Tài chính xanh có thể giảm thiểu vấn đề này bằng cách kết hợp các rủi ro môi trường với các rủi ro tài chính.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng lưu ý rằng ở các khu vực phụ thuộc vào các ngành công nghiệp hóa chất nặng, tài chính xanh có thể có tác động tiêu cực đến phát triển xanh do hạn chế nguồn vốn cho các ngành công nghiệp này.
Vai trò trung gian của đổi mới công nghệ xanh
Nghiên cứu cho rằng tài chính xanh có thể thúc đẩy phát triển xanh bằng cách hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh. Tài chính xanh hướng nguồn lực đến các doanh nghiệp xanh, cho phép họ tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp hơn và hỗ trợ R&D trong các lĩnh vực như tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và sản xuất sạch. Tuy nhiên, ở các khu vực có trình độ đổi mới công nghệ xanh thấp, chi phí cho các sản phẩm và dịch vụ xanh có thể quá cao, hạn chế tác động của tài chính xanh.
Hiệu ứng lan tỏa không gian
Dựa trên lý thuyết cực tăng trưởng của Perroux (1988), nghiên cứu cho rằng tác động của tài chính xanh đối với phát triển xanh có thể lan tỏa sang các khu vực lân cận. Ở giai đoạn đầu, các khu vực có mức độ phát triển tài chính xanh cao có thể thu hút nguồn lực từ các khu vực xung quanh, tạo ra hiệu ứng phân cực. Tuy nhiên, khi tài chính xanh phát triển đến một giai đoạn nhất định, các khu vực này có thể xuất khẩu nguồn lực sang các khu vực lân cận, thúc đẩy sự phát triển tài chính xanh ở các khu vực đó, tạo ra hiệu ứng khuếch tán.
Giả thuyết
Dựa trên phân tích lý thuyết, nghiên cứu đưa ra ba giả thuyết:
- H1: Tài chính xanh có thể thúc đẩy phát triển xanh, nhưng ở các khu vực phụ thuộc vào các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm cao, tài chính xanh có thể có tác động tiêu cực.
- H2: Tài chính xanh có thể có tác động tích cực đến phát triển xanh thông qua hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh, nhưng ở các khu vực có trình độ đổi mới công nghệ xanh thấp, tác động này có thể là tiêu cực.
- H3: Tác động của tài chính xanh đối với phát triển xanh có hiệu ứng lan tỏa không gian. Hiệu ứng lan tỏa này có thể là tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào mức độ phát triển tài chính xanh của khu vực.
Thiết kế Nghiên cứu
Đo lường Phát triển Xanh
Nghiên cứu sử dụng hiệu quả sinh thái cấp vùng làm thước đo cho sự phát triển xanh của khu vực. Để tính toán hiệu quả sinh thái, nghiên cứu này đã xây dựng mô hình SBM siêu hiệu quả kết hợp với phân tích cửa sổ để đo lường hiệu quả sinh thái so sánh của 30 khu vực hành chính cấp tỉnh của Trung Quốc từ năm 2007 đến năm 2019. Mô hình SBM siêu hiệu quả là một phương pháp phi tham số có thể xử lý nhiều đầu vào và đầu ra, đồng thời không phụ thuộc vào đơn vị của các biến (Tone, 2002). Phân tích cửa sổ được sử dụng để so sánh hiệu quả sinh thái của một đơn vị ra quyết định (DMU) trong một giai đoạn nhất định không chỉ với các DMU khác trong cùng giai đoạn, mà còn với hiệu quả sinh thái của chính nó trong các giai đoạn khác.
Hệ thống chỉ số để đánh giá hiệu quả sinh thái bao gồm các yếu tố đầu vào (đầu tư vốn, tiêu thụ năng lượng, cung cấp nước, diện tích đất xây dựng đô thị, diện tích đất canh tác và việc làm), đầu ra mong muốn (GDP khu vực) và đầu ra không mong muốn (lượng nước thải công nghiệp thải ra, lượng khí thải lưu huỳnh đioxit và lượng khí thải bụi công nghiệp).
Đo lường Tài chính Xanh
Nghiên cứu xây dựng một hệ thống đánh giá toàn diện cho tài chính xanh ở cấp tỉnh, dựa trên báo cáo “Tài chính xanh của Trung Quốc năm 2014” của Li và cộng sự (2014). Hệ thống này bao gồm các chỉ số thứ cấp như tín dụng xanh, chứng khoán xanh, bảo hiểm xanh và đầu tư xanh. Dữ liệu được thu thập từ Niên giám thống kê công nghiệp Trung Quốc, Niên giám thống kê của các khu vực khác nhau, cơ sở dữ liệu CSMAR và Niên giám bảo hiểm Trung Quốc. Phương pháp entropy được sử dụng để tổng hợp chỉ số tài chính xanh, với giá trị cao hơn cho thấy mức độ phát triển tài chính xanh cao hơn.
Mô hình Dữ liệu Bảng Không gian
Để phân tích tác động của tài chính xanh đối với hiệu quả sinh thái, nghiên cứu sử dụng mô hình Durbin không gian (SDM). SDM bao gồm cả hiệu ứng tương tác không gian nội sinh và hiệu ứng tương tác không gian của số hạng nhiễu. Các kiểm tra LM và LR được sử dụng để xác định xem SDM có thể được đơn giản hóa thành mô hình độ trễ không gian (SAR) hoặc mô hình sai số không gian (SEM) hay không. Kiểm tra Hausman được sử dụng để xác định xem mô hình hiệu ứng cố định hay hiệu ứng ngẫu nhiên là phù hợp hơn.
Nguồn Dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 30 khu vực hành chính cấp tỉnh của Trung Quốc đại lục từ năm 2007 đến năm 2019. Các nguồn dữ liệu chính bao gồm Niên giám thống kê của các tỉnh khác nhau, Niên giám thống kê năng lượng của Trung Quốc, trang web của Văn phòng Sở hữu trí tuệ nhà nước Trung Quốc (SIPO), cơ sở dữ liệu CSMAR và Niên giám bảo hiểm Trung Quốc. Dữ liệu còn thiếu được điền bằng phương pháp nội suy và tất cả các biến liên quan đến giá được điều chỉnh theo giá không đổi dựa trên năm 2007.
Kết quả Thực nghiệm và Thảo luận
Các thay đổi và kết nối về mặt thời gian và không gian của Tài chính xanh khu vực và Hiệu quả sinh thái
Nghiên cứu này đã sử dụng phần mềm ArcGIS để phân loại hiệu quả sinh thái và chỉ số tài chính xanh của các tỉnh của Trung Quốc vào các năm 2007, 2013 và 2019. Kết quả cho thấy hiệu quả sinh thái và tài chính xanh đều có xu hướng tăng lên theo thời gian, với sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực. Các tỉnh ven biển phía Đông, chẳng hạn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Giang Tô, Chiết Giang và Quảng Đông, có cả hiệu quả sinh thái và mức độ phát triển tài chính xanh tương đối cao, trong khi các khu vực phía Tây và Đông Bắc có xu hướng có giá trị thấp hơn. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy rằng các khu vực có tài chính xanh cao hơn có xu hướng có hàng xóm với tài chính xanh thấp hơn, cho thấy sự tồn tại của hiệu ứng phân cực.
Các chỉ số Moran’I và Geary’s c cho thấy hiệu quả sinh thái và tài chính xanh có mối tương quan không gian đáng kể, nhấn mạnh sự cần thiết của các mô hình kinh tế lượng không gian để phân tích mối quan hệ giữa chúng.
Phân tích Kết quả Mô hình
Cả nước
Từ quan điểm quốc gia, nghiên cứu này phát hiện ra rằng tác động trực tiếp của tài chính xanh đối với hiệu quả sinh thái là không đáng kể. Điều này có thể là do thực tế là mặc dù tài chính xanh có thể cung cấp hỗ trợ tài chính cho các dự án xanh và hướng dòng vốn từ các ngành công nghiệp gây ô nhiễm sang các ngành thân thiện với môi trường, nhưng nó cũng có thể làm giảm sản lượng kinh tế ở các khu vực phụ thuộc vào các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm. Hơn nữa, nghiên cứu này phát hiện ra rằng tác động của tài chính xanh đối với hiệu quả sinh thái thông qua việc hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh là không đáng kể, có thể là do mức độ đổi mới công nghệ xanh tương đối thấp trên toàn quốc.
Về hiệu ứng gián tiếp, nghiên cứu này phát hiện ra rằng hiệu ứng lan tỏa không gian của tài chính xanh là đáng kể và tiêu cực, cho thấy rằng các khu vực có mức độ phát triển tài chính xanh cao có xu hướng thu hút nguồn lực tài chính từ các khu vực lân cận, khiến các khu vực này không có đủ vốn để hỗ trợ sự phát triển của các dự án xanh và ngành công nghiệp.
Vùng phía Đông
Nghiên cứu này phát hiện ra rằng tài chính xanh có tác động tích cực và đáng kể đến hiệu quả sinh thái ở khu vực phía Đông. Điều này có thể là do các tỉnh ở khu vực phía Đông có tương đối phát triển tốt, với các nguồn tăng trưởng kinh tế chính đã chuyển từ các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng và gây ô nhiễm sang các ngành công nghiệp công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Hơn nữa, nghiên cứu này phát hiện ra rằng tài chính xanh có tác động tích cực và đáng kể đến hiệu quả sinh thái thông qua việc hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh ở khu vực phía Đông, cho thấy rằng đổi mới công nghệ xanh đã đạt đến một mức độ nhất định, khiến các hoạt động kinh tế xanh có lợi thế về chi phí và giá cả so với các hoạt động kinh tế không xanh.
Về hiệu ứng gián tiếp, nghiên cứu này phát hiện ra rằng các hiệu ứng lan tỏa không gian của tài chính xanh và tài chính xanh thông qua hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh là đáng kể và tích cực ở khu vực phía Đông, cho thấy rằng tài chính xanh đã đạt đến một mức độ nhất định ở hầu hết các tỉnh ở khu vực phía Đông, dẫn đến xuất khẩu tài chính nguồn lực cho các khu vực xung quanh và thúc đẩy sự phát triển của tài chính xanh ở các khu vực này.
Vùng Trung du
Nghiên cứu này phát hiện ra rằng tác động của tài chính xanh đối với hiệu quả sinh thái là không đáng kể ở khu vực Trung du. Điều này có thể là do tài chính xanh hạn chế dòng vốn vào các ngành công nghiệp thâm dụng ô nhiễm được chuyển từ các tỉnh ven biển phía Đông, vốn đã trở thành các ngành công nghiệp hàng đầu ở khu vực Trung du sau khi thực hiện chiến lược phát triển của miền Trung Trung Quốc vào năm 2004. Ngoài ra, nghiên cứu này phát hiện ra rằng tác động của tài chính xanh đối với hiệu quả sinh thái thông qua việc hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh là rất yếu và không đáng kể ở khu vực Trung du, có thể là do đổi mới công nghệ xanh chưa đạt đến một mức độ nhất định ở khu vực này.
Nghiên cứu này phát hiện ra rằng các hiệu ứng lan tỏa không gian của tài chính xanh và tài chính xanh thông qua việc hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh là không đáng kể ở khu vực Trung du. Điều này có thể là do thực tế là chỉ số tài chính xanh giữa các tỉnh ở khu vực Trung du không khác nhau nhiều.
Miền Tây
Nghiên cứu này phát hiện ra rằng tài chính xanh có tác động tiêu cực và đáng kể đến hiệu quả sinh thái ở khu vực phía Tây. Điều này có thể là do chiến lược phát triển kinh tế của khu vực phía Tây từ lâu đã ưu tiên phát triển khai thác và chế biến tài nguyên, và công nghiệp nguyên liệu thô. Sự phát triển của tài chính xanh chắc chắn sẽ làm giảm sự hỗ trợ tài chính cho các ngành công nghiệp này, dẫn đến giảm sản lượng kinh tế ở khu vực phía Tây. Ngoài ra, nghiên cứu này phát hiện ra rằng tài chính xanh có tác động tiêu cực và đáng kể đến hiệu quả sinh thái thông qua việc hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh ở khu vực phía Tây, có thể là do mức độ đổi mới công nghệ xanh ở khu vực này vẫn còn tương đối thấp, với tác động hạn chế của sản xuất xanh công nghệ và công nghệ kiểm soát ô nhiễm trong việc cải thiện môi trường sinh thái.
Nghiên cứu này phát hiện ra rằng hiệu ứng lan tỏa không gian của tài chính xanh là đáng kể và tiêu cực ở khu vực phía Tây, đây hiện tượng có thể liên quan đến hiệu ứng phân cực.
Kiểm soát tính nội sinh và Kiểm tra tính mạnh mẽ
Để giải quyết các vấn đề về tính nội sinh, nghiên cứu sử dụng các mô hình hiệu ứng cố định theo thời gian và không gian. Để đảm bảo tính mạnh mẽ của kết quả phân tích, nghiên cứu thực hiện hai thử nghiệm tính mạnh mẽ: một là thay đổi phương pháp đo lường biến phụ thuộc (sử dụng tỷ lệ tiêu thụ năng lượng trên một đơn vị GDP làm thước đo cho phát triển xanh) và hai là thay đổi phương pháp xây dựng ma trận trọng số không gian (sử dụng ma trận trọng số khoảng cách nghịch đảo). Kết quả của các thử nghiệm tính mạnh mẽ vẫn nhất quán với kết quả ban đầu, cho thấy rằng kết quả của nghiên cứu là mạnh mẽ.
Kết luận
Nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ phức tạp giữa tài chính xanh và phát triển xanh ở Trung Quốc. Nghiên cứu này chỉ ra rằng tác động của tài chính xanh đối với phát triển xanh khác nhau giữa các khu vực khác nhau, với tài chính xanh có tác động tích cực ở khu vực phía Đông, không đáng kể ở khu vực Trung du và tiêu cực ở khu vực phía Tây. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tài chính xanh có thể thúc đẩy phát triển xanh bằng cách hỗ trợ đổi mới công nghệ xanh, nhưng tác động này chỉ đáng kể ở khu vực phía Đông. Cuối cùng, nghiên cứu chỉ ra rằng tác động của tài chính xanh đối với phát triển xanh có hiệu ứng lan tỏa không gian, với hiệu ứng lan tỏa có thể là tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào mức độ phát triển tài chính xanh của khu vực.
Nghiên cứu này có một số ý nghĩa quan trọng đối với chính sách. Đầu tiên, nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết của việc chính phủ thiết lập các hệ thống đánh giá cho phát triển xanh và tài chính xanh và xây dựng một hệ thống tích hợp để tạo ra các công cụ, bao gồm theo dõi, giám sát thống kê và cơ chế đánh giá. Thứ hai, nghiên cứu này cho thấy rằng các chính phủ ở các khu vực khác nhau của Trung Quốc nên xây dựng các mục tiêu chính sách khu vực và thực hiện các biện pháp chính sách phù hợp. Thứ ba, nghiên cứu này cho thấy rằng chính phủ nên cam kết nuôi dưỡng và mở rộng cơ quan chính của đổi mới công nghệ xanh, tăng cường vị thế của doanh nghiệp là cơ quan chính của đổi mới công nghệ xanh và thúc đẩy sự tích hợp sâu sắc của “ngành công nghiệp-trường đại học-nghiên cứu-tài chính-truyền thông”.
Hạn chế và Nghiên cứu Thêm
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Đầu tiên, nghiên cứu này giới hạn ở việc phân chia khu vực kinh tế của Trung Quốc. Thứ hai, để nghiên cứu tác động hỗ trợ của tài chính xanh đối với sự phát triển xanh, nghiên cứu này xây dựng một hệ thống chỉ số để đo lường mức độ tài chính xanh, tuy nhiên, không phải tất cả các loại tài chính xanh đều được bảo hiểm. Trong tương lai, nghiên cứu sẽ sử dụng dữ liệu bảng thành phố để thực hiện nghiên cứu có mục tiêu dựa trên các phân loại trên để đưa ra kết luận có mục tiêu và có lợi hơn.
Tài liệu tham khảo
- Bai, Q., Tan, Q. (2006). Analysis on evolution and development of financial function. J. Financ. Res., 7, 41-52. (In Chinese)
- Levine, R. (2005). Finance and growth: Theory, evidence and mechanisms. In Handbook of Economic Growth. North-Holland Press: North Holland.
- Li, X., Xia, G. (2014). China Green Finance Report 2014. China Finance Press: Beijing.
- Perroux, F. (1988). The Pole of Development’s New Place in a General Theory of Economic Activity; Regional Economic Development. Boston, MA, USA.
- Tone, K. (2002). A slacks-based measure of super-efficiency in data envelopment analysis. Eur. J. Oper. Res., 143, 32-41.
Download Nghiên cứu khoa học: Research On Green Finance And Green Development Based Eco-Efficiency And Spatial Econometric Analysis