Kinh Tế Biển Và Quản Lý Bền Vững Tài Nguyên Biển Tại Việt Nam
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích thực trạng, chiến lược và giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các phương hướng quản lý hiệu quả tài nguyên biển. Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km, đứng thứ 27 trên thế giới, với tiềm năng lớn về tài nguyên sinh vật, dầu khí, khoáng sản và năng lượng tái tạo. Kinh tế biển đóng góp khoảng 50% GDP cả nước, tuy nhiên còn nhiều hạn chế như khai thác tài nguyên chưa bền vững, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Nghị quyết số 36-NQ/TW đặt nền móng cho định hướng phát triển kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và bảo vệ môi trường là yếu tố then chốt, với việc triển khai các quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hạ tầng, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức cộng đồng để khai thác hiệu quả và bền vững tiềm năng kinh tế biển, hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, thịnh vượng.
Nội dung chính
Việt Nam, với vị trí địa lý ưu đãi cùng đường bờ biển dài trên 3.260km, đang đứng trước cơ hội to lớn để phát triển kinh tế biển, đưa đất nước trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Trước xu hướng của thế kỷ 21 – được mệnh danh là “Thế kỷ của đại dương”, Việt Nam đã và đang từng bước xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, đồng thời tăng cường công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Nghiên cứu này sẽ phân tích toàn diện về thực trạng, chiến lược và giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các phương hướng quản lý hiệu quả tài nguyên biển nhằm đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng đến mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, thịnh vượng vào năm 2045.
Tổng quan về tiềm năng và tài nguyên biển của Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt nằm bên bờ Biển Đông, với 28/63 tỉnh, thành phố ven biển, chiếm 42% diện tích đất liền và 45% tổng dân số cả nước [1]. Đất nước ta sở hữu bờ biển dài trên 3.260km, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các đảo quốc và lãnh thổ trên thế giới [2]. Ngoài ra, Việt Nam còn có diện tích các vùng lãnh hải thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên 1 triệu km², với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên 3.000 đảo và quần đảo khác [3]. Vùng biển này có vị trí chiến lược quan trọng, là cầu nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nằm trên ngã tư của tuyến hàng hải và hàng không quốc tế [2]. Vị trí này không chỉ mang lại lợi thế về giao thương, mà còn tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển các ngành kinh tế biển đa dạng.
Về tài nguyên sinh vật biển, theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam sở hữu khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau [1]. Sự đa dạng sinh học này bao gồm các hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, vùng nước trồi, và vùng biển sâu. Nguồn lợi thủy sản biển Việt Nam tương đối phong phú với 1.700 loài thủy sản thuộc hơn 730 giống, 260 họ, trong đó trên 130 loài có giá trị kinh tế cao [1]. Các loài có giá trị kinh tế cao bao gồm tôm, cá ngừ, cá thu, mực, ghẹ và nhiều loại hải sản khác, đóng góp đáng kể vào ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản. Khả năng khai thác cho phép từ nguồn thủy sản ở biển Việt Nam ước tính hơn 2,83 triệu tấn/năm [1]. Các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển có tổng diện tích trên 1,9 triệu ha, rất đa dạng về kiểu loại, bao gồm rừng ngập mặn, đầm phá, bãi triều, cửa sông, và vũng vịnh [1]. Các hệ sinh thái này không chỉ là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật biển mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bờ biển, lọc nước và cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng khác. Tìm hiểu thêm về khái niệm du lịch và sản phẩm du lịch tại đây.
Ngoài tài nguyên sinh vật, biển Việt Nam còn giàu tài nguyên phi sinh vật như dầu khí và khoáng sản. Ở Việt Nam, nguồn dầu khí đã thăm dò, khảo sát có trữ lượng khoảng 3-4 triệu tấn dầu quy đổi [2]. Các mỏ dầu khí lớn như Bạch Hổ, Rạng Đông, Sư Tử Đen đã và đang đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, vùng biển Việt Nam còn có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo, cảnh quan thiên nhiên phục vụ du lịch, và các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể [1]. Tiềm năng năng lượng tái tạo biển bao gồm năng lượng gió ngoài khơi, năng lượng sóng, năng lượng mặt trời và năng lượng thủy triều, mở ra hướng phát triển mới cho ngành năng lượng Việt Nam. Cảnh quan thiên nhiên biển đa dạng với các bãi biển đẹp, vịnh, đảo và quần đảo là nguồn tài nguyên du lịch vô giá, thu hút du khách trong và ngoài nước. Các giá trị văn hóa biển phong phú, bao gồm các lễ hội truyền thống, di tích lịch sử và văn hóa liên quan đến biển, cũng là một phần quan trọng của tiềm năng kinh tế biển.
Với trên 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển, Việt Nam có nhiều tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển trong các lĩnh vực như giao thông vận tải biển, khai thác và chế biến khoáng sản, khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản, và phát triển du lịch biển [2]. Những tiềm năng này tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát triển mạnh mẽ kinh tế biển và phấn đấu trở thành quốc gia biển mạnh trong khu vực và thế giới. Vận tải biển đóng vai trò huyết mạch trong thương mại quốc tế và nội địa, với hệ thống cảng biển đang được đầu tư và nâng cấp. Ngành khai thác và chế biến khoáng sản biển, đặc biệt là khai thác cát, titan và các khoáng sản khác, cũng có tiềm năng phát triển. Ngành nuôi trồng và chế biến hải sản đang ngày càng được chú trọng phát triển theo hướng bền vững và công nghệ cao. Du lịch biển, với sự đa dạng về sản phẩm và dịch vụ, có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào GDP và tạo việc làm. Hãy cùng tìm hiểu về các đặc tính của sản phẩm du lịch để hiểu rõ hơn về tiềm năng này.
Thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam
Trong những năm qua, kinh tế biển đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2011-2022, các ngành kinh tế biển đã đóng góp lớn trong phát triển kinh tế cả nước với GDP trung bình của 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm khoảng 50% GDP của cả nước [3]. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của kinh tế biển trong cơ cấu kinh tế quốc gia. Thu nhập bình quân đầu người của các địa phương ven biển đạt khoảng 97 triệu đồng năm 2022, cao hơn bình quân cả nước [1]. Sự phát triển kinh tế biển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng ven biển. Đặc biệt, kinh tế đảo đã có sự chuyển biến căn bản, góp phần hình thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia đối với các vùng biển, các đảo, quần đảo của Việt Nam [3]. Phát triển kinh tế đảo không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng và an ninh.
Trong lĩnh vực thủy sản, theo Báo cáo tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2023, triển khai kế hoạch năm 2024 của Cục Thủy sản, tổng sản lượng thủy sản đến hết tháng 12 năm 2023 ước tính đạt 9,269 triệu tấn, tăng 2% so với năm 2022, vượt mục tiêu đề ra [4]. Trong đó, khai thác thủy sản đạt 3,861 triệu tấn, tương đương với năm 2022; nuôi trồng thủy sản đạt hơn 5,408 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm 2022 [4]. Ngành nuôi trồng thủy sản đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng thủy sản, cho thấy xu hướng chuyển dịch sang nuôi trồng để giảm áp lực khai thác tự nhiên. Về kim ngạch xuất khẩu, giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2023 ước đạt khoảng 9,2 tỷ USD [5]. Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp vào nguồn thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Tìm hiểu thêm về đặc điểm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế biển Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức trong phát triển bền vững. Một trong những thách thức lớn là việc khai thác tài nguyên biển, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản, còn chưa bền vững, dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn lợi, nhất là ở vùng ven bờ [6]. Tình trạng khai thác bằng các phương pháp hủy diệt như sử dụng chất nổ, xung điện vẫn còn diễn ra, gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản. Ngoài ra, các hoạt động phát triển kinh tế biển còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, gây ra các mâu thuẫn, chồng lấn trong sử dụng không gian biển [5]. Sự chồng lấn giữa các ngành như du lịch, nuôi trồng thủy sản, giao thông vận tải biển và khai thác khoáng sản cần được giải quyết để đảm bảo sử dụng không gian biển hiệu quả và bền vững.
Công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo còn nhiều bất cập, với tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, sạt lở bờ biển và biển xâm thực ngày càng gia tăng [4]. Ô nhiễm biển do rác thải nhựa, nước thải công nghiệp và sinh hoạt, hoạt động nuôi trồng thủy sản và giao thông vận tải biển đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho phát triển bền vững kinh tế biển [3]. Tác động của biến đổi khí hậu như bão, lũ, xâm nhập mặn và nước biển dâng đang đe dọa cơ sở hạ tầng ven biển, các hệ sinh thái và đời sống của người dân.
Về cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển, mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là hệ thống cảng biển, đường giao thông kết nối và dịch vụ logistics [5]. Hệ thống cảng biển còn thiếu đồng bộ và hiện đại, chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải biển ngày càng tăng. Đường giao thông kết nối các vùng kinh tế biển với đất liền còn hạn chế, gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hóa và phát triển du lịch. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển và so với các nước trong khu vực [6]. Đầu tư cho khoa học và công nghệ biển còn hạn chế, nguồn nhân lực chất lượng cao về biển còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành kinh tế biển hiện đại.
Chiến lược và mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế biển đối với sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là văn bản quan trọng đặt nền móng cho định hướng phát triển kinh tế biển của đất nước trong giai đoạn tới [7]. Nghị quyết 36-NQ/TW thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế biển một cách bền vững, toàn diện và hiệu quả.
Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng [8]. Mục tiêu này thể hiện sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới một nền kinh tế biển xanh và bền vững. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại sẽ trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển [6]. Ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các ngành kinh tế biển.
Về mục tiêu cụ thể đến năm 2030, Chiến lược xác định các chỉ tiêu tổng hợp về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới [6]. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về biển và hải đảo, xây dựng hệ thống quản trị biển hiện đại và hiệu quả là một trong những ưu tiên hàng đầu. Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước, với kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP cả nước [7]. Mục tiêu này thể hiện kỳ vọng lớn vào sự tăng trưởng của kinh tế biển trong cơ cấu kinh tế quốc gia. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế, với sự kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển [8]. Phát triển kinh tế biển phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên biển, đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.
Về mặt xã hội, Chiến lược đặt mục tiêu Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước, với thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước [7]. Phát triển kinh tế biển phải đi đôi với phát triển xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vùng ven biển. Các đảo có người dân sinh sống sẽ có hạ tầng kinh tế-xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục [8]. Quan tâm đầu tư phát triển kinh tế-xã hội cho các đảo tiền tiêu, đảm bảo điều kiện sống tốt cho người dân và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương [7]. Tầm nhìn 2045 khẳng định khát vọng đưa Việt Nam trở thành một cường quốc biển, có vai trò và vị thế quan trọng trên trường quốc tế trong lĩnh vực biển và đại dương.
Để cụ thể hóa chiến lược này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 về Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 24/11/2021 về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam [9]. Các văn bản này đã cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược, đồng thời giao trách nhiệm cho các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai thực hiện. Tham khảo về khái niệm và vai trò của quản trị công ty.
Quản lý tổng hợp và bền vững tài nguyên biển
Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển là yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam. Theo quan điểm chỉ đạo của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, cần “Tăng cường quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng…” [5]. Quản lý tổng hợp tài nguyên biển đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cộng đồng trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên biển.
Để thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam đã và đang triển khai hai quy hoạch quan trọng là Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ [10]. Đây là hai quy hoạch lần đầu tiên được lập ở Việt Nam, là quy hoạch đa ngành, tích hợp, có ý nghĩa chiến lược toàn diện, định hướng cho các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển theo hướng bền vững [11]. Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ là công cụ quan trọng để hiện thực hóa chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.
Mục tiêu của Quy hoạch không gian biển quốc gia là phân bổ, quản lý hiệu quả, giảm thiểu các mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng không gian biển [10]. Thông qua các quy hoạch này, Việt Nam hướng đến việc phân bổ hợp lý không gian phát triển cho các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và giải quyết cơ bản các mâu thuẫn, chồng lấn trong sử dụng không gian biển; khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý theo ngành, lĩnh vực [11]. Quy hoạch không gian biển quốc gia giúp đảm bảo sự hài hòa giữa các hoạt động kinh tế biển, bảo tồn môi trường và quốc phòng an ninh.
Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 [8]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai quy hoạch và quản lý không gian biển một cách hiệu quả. Đi kèm với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 27/2/2025 về Kế hoạch thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia [12]. Kế hoạch này đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm như rà soát, sửa đổi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, đẩy nhanh triển khai các chương trình, dự án, nhiệm vụ về phát triển hạ tầng ven biển, biển và hải đảo, và chuyển đổi số trong quản lý tài nguyên biển [12]. Kế hoạch thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia cụ thể hóa các nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện thành công quy hoạch.
Tương tự, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1117/QĐ-TTg ngày 07/10/2024 [13]. Quy hoạch này tập trung vào quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, một khu vực quan trọng và nhạy cảm về môi trường. Kế hoạch thực hiện quy hoạch này nhằm triển khai hiệu quả quy hoạch, xác định lộ trình tổ chức thực hiện, các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm và danh mục các chương trình, dự án ưu tiên [13]. Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả trong quá trình thực hiện quy hoạch.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 [14]. Chiến lược này đặt ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là tài nguyên biển và hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả, công bằng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh [14]. Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo là một chiến lược quan trọng, bao trùm nhiều lĩnh vực và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Chiến lược cũng hướng đến mục tiêu ngăn ngừa, kiểm soát, giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ, duy trì và phục hồi đa dạng sinh học biển, ven biển và hải đảo; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản thiên nhiên, di sản văn hóa biển; hạn chế thấp nhất tác động của thiên tai, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng [14]. Các mục tiêu này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo tồn các giá trị văn hóa biển. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải tìm hiểu thêm về khái niệm phát triển bền vững.
Khung pháp lý và chính sách phát triển kinh tế biển
Để thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển, Việt Nam đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về biển. Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh các hoạt động liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển [15]. Luật này quy định các nguyên tắc, quy định về quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Hiện nay, Việt Nam đang tập trung nghiên cứu sửa đổi Luật này nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, tháo gỡ vướng mắc trong công tác quản lý, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng không gian biển, bảo vệ môi trường biển [15]. Việc sửa đổi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển trong tình hình mới.
Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng liên quan đến phát triển kinh tế biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là văn bản có tính chiến lược, định hướng lâu dài cho phát triển kinh tế biển [7]. Nghị quyết 36-NQ/TW là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phát triển kinh tế biển của Việt Nam trong giai đoạn tới. Để cụ thể hóa Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 về Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW [9]. Nghị quyết 26/NQ-CP và các kế hoạch 5 năm là công cụ quan trọng để triển khai thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW.
Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt tại Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 là một văn bản quan trọng khác định hướng cho việc khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển [14]. Chiến lược này đề ra mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, cũng như các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu đó [14]. Nghị quyết 48/NQ-CP là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý và chính sách về phát triển bền vững kinh tế biển.
Ở cấp quy hoạch, Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 [8]. Kế hoạch thực hiện Quy hoạch này đã được Chính phủ ban hành tại Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 27/2/2025 [12]. Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1117/QĐ-TTg ngày 07/10/2024 [13]. Các quy hoạch này là cơ sở quan trọng để quản lý và sử dụng không gian biển và tài nguyên vùng bờ một cách hiệu quả và bền vững.
Đối với phát triển cụm liên kết ngành kinh tế biển, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển cụm liên kết ngành kinh tế biển gắn với xây dựng các trung tâm kinh tế biển mạnh thời kỳ đến năm 2030 tại Quyết định số 892/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 [16]. Đề án này nhằm thúc đẩy sự liên kết, phối hợp giữa các ngành kinh tế biển và xây dựng các trung tâm kinh tế biển mạnh [16]. Phát triển cụm liên kết ngành kinh tế biển là một hướng đi mới và hiệu quả để nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của kinh tế biển. Cùng tìm hiểu về khái niệm về cụm ngành.
Cấp địa phương, các tỉnh, thành phố ven biển cũng đã xây dựng và ban hành các kế hoạch, đề án phát triển kinh tế biển phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Ví dụ, tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế biển đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với mục tiêu phát triển Ninh Thuận trở thành tỉnh mạnh về biển trong khu vực [17]. Tương tự, tỉnh Phú Yên cũng đã xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển với mục tiêu đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp từ khoảng 8-10% GRDP của tỉnh [4]. Các kế hoạch và đề án phát triển kinh tế biển cấp địa phương góp phần cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Trung ương và phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.
Thách thức trong phát triển bền vững kinh tế biển
Mặc dù có nhiều tiềm năng và đã đạt được những thành tựu nhất định, việc phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn nhất là sự mâu thuẫn, chồng lấn trong khai thác, sử dụng không gian biển giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế [5]. Sự chồng lấn này gây ra xung đột lợi ích, giảm hiệu quả sử dụng không gian biển và cản trở sự phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi phải có sự quản lý tổng hợp, thống nhất và hiệu quả từ Trung ương đến địa phương. Cần có cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng hiệu quả để giải quyết các mâu thuẫn, chồng lấn trong sử dụng không gian biển.
Tình trạng khai thác quá mức, không bền vững tài nguyên biển, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản, đang dẫn đến sự suy giảm đáng kể các nguồn tài nguyên này [6]. Khai thác quá mức không chỉ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản mà còn gây tổn hại đến hệ sinh thái biển và đa dạng sinh học. Tại nhiều vùng biển ven bờ, nguồn lợi thủy sản đã bị cạn kiệt do khai thác quá mức và không kiểm soát [6]. Để khắc phục tình trạng này, cần hạn chế khai thác gần bờ để tái tạo nguồn lợi hải sản đang bị cạn kiệt, tập trung nhân lực và nguồn vốn cho các tàu lớn để tăng cường năng lực, hiệu quả khai thác hải sản xa bờ [4]. Cần có các biện pháp quản lý khai thác hiệu quả, áp dụng các quy định về hạn ngạch khai thác, mùa vụ khai thác và khu vực cấm khai thác.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho phát triển bền vững kinh tế biển [3]. Các hiện tượng thời tiết cực đoan, bão, lũ, hạn hán ngày càng gia tăng về tần suất và cường độ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế biển và đời sống của người dân vùng ven biển. Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến nhiều ngành kinh tế biển, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, du lịch và giao thông vận tải biển. Tình trạng sạt lở bờ biển, xâm nhập mặn cũng ngày càng trở nên nghiêm trọng, đe dọa các hệ sinh thái ven biển và các hoạt động sản xuất nông nghiệp [3]. Cần có các giải pháp ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, bao gồm xây dựng hệ thống đê điều, công trình phòng chống thiên tai và các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ô nhiễm môi trường biển là một thách thức lớn khác đối với phát triển bền vững kinh tế biển [17]. Nguồn ô nhiễm biển đến từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, rác thải nhựa và hoạt động giao thông vận tải biển. Công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo cần được chính quyền các địa phương tăng cường, nhất là kiểm soát thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải [17]. Cần có các giải pháp đồng bộ để giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển, bao gồm tăng cường kiểm soát nguồn thải, đầu tư hệ thống xử lý nước thải và rác thải, và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng. Tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa đại dương cũng đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ để giảm thiểu và xử lý [17]. Cần có các chương trình hành động quốc gia và quốc tế để giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương.
Hạ tầng kinh tế-xã hội phục vụ phát triển kinh tế biển, mặc dù đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là hệ thống cảng biển, đường giao thông kết nối và dịch vụ logistics [5]. Hạ tầng yếu kém là một trong những rào cản lớn đối với phát triển kinh tế biển. Điều này làm hạn chế khả năng phát triển các ngành kinh tế biển, đặc biệt là vận tải biển, du lịch biển và chế biến hải sản. Cần tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội vùng ven biển, đặc biệt là hệ thống cảng biển, đường giao thông và dịch vụ logistics.
Nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, còn thiếu và yếu cả về số lượng và chất lượng [4]. Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao là một thách thức lớn đối với việc phát triển các ngành kinh tế biển hiện đại và công nghệ cao. Công tác nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực biển, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế biển một cách bền vững và hiệu quả [6]. Cần tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực biển, phát triển khoa học và công nghệ biển, và khuyến khích chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực biển. Xem thêm: khai niệm về giáo dục và đào tạo.
Giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển
Để phát triển bền vững kinh tế biển, Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp mang tính đổi mới, sáng tạo và đột phá. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển bền vững kinh tế biển [14]. Hoàn thiện thể chế, chính sách là nền tảng quan trọng để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Việc tập trung sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là cần thiết để tháo gỡ vướng mắc, hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác quản lý, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc khai thác, sử dụng không gian biển, bảo vệ môi trường biển [15]. Cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh tế biển để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.
Việc triển khai hiệu quả Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ cũng là một giải pháp quan trọng [10]. Các quy hoạch này cần phải được cụ thể hóa, xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, chương trình, dự án ưu tiên cho giai đoạn đến năm 2030 [11]. Các bộ, ngành, địa phương cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn và các quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành có liên quan phù hợp với Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ [11]. Cần đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ giữa các quy hoạch khác nhau để tránh chồng chéo và mâu thuẫn.
Về phát triển các ngành kinh tế biển, cần tập trung vào các ngành có lợi thế và tiềm năng lớn như du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác và chế biến hải sản, công nghiệp ven biển, và năng lượng tái tạo [4]. Phát triển các ngành kinh tế biển mũi nhọn và có giá trị gia tăng cao là một trong những ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, cần phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, khai thác thủy sản xa bờ, bảo tồn nguồn lợi thủy sản nhằm mục tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0-4,0%/năm [4]. Phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững và khai thác hải sản xa bờ là hướng đi quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển kinh tế. Đối với lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản, nên hạn chế khai thác gần bờ để tái tạo nguồn lợi hải sản đang bị cạn kiệt, tập
[accordion title=”Questions & Answers”]
[accordion-item title=”Q1: Việt Nam sở hữu những lợi thế địa lý đặc biệt nào tạo điều kiện phát triển kinh tế biển?”]
A1: Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi với bờ biển dài trên 3.260km, đứng thứ 27 thế giới. Vị trí chiến lược bên bờ Biển Đông, là cầu nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nằm trên ngã tư hàng hải quốc tế. Với 28 tỉnh thành ven biển, chiếm tỷ lệ lớn diện tích và dân số cả nước, Việt Nam có tiềm năng to lớn để phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển.
[/accordion-item]
[accordion-item title=”Q2: Những thách thức lớn nhất hiện nay đối với phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là gì?”]
A2: Phát triển kinh tế biển Việt Nam đối diện nhiều thách thức lớn. Khai thác tài nguyên biển chưa bền vững, đặc biệt là thủy sản ven bờ, dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi. Ô nhiễm môi trường biển, sạt lở bờ biển, và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Hạ tầng kinh tế biển còn yếu kém, cùng với đó là sự thiếu đồng bộ trong quản lý và nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế.
[/accordion-item]
[accordion-item title=”Q3: Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 đặt ra mục tiêu tổng quát nào?”]
A3: Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 đặt mục tiêu tổng quát là đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh. Đồng thời, chiến lược hướng đến đạt các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển, hình thành văn hóa sinh thái biển, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, và ngăn chặn suy thoái môi trường biển.
[/accordion-item]
[accordion-item title=”Q4: Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển có vai trò then chốt như thế nào?”]
A4: Quản lý tổng hợp tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển đóng vai trò then chốt trong chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Việc này giúp đảm bảo khai thác hiệu quả tài nguyên, giảm thiểu mâu thuẫn trong sử dụng không gian biển, và bảo tồn đa dạng sinh học. Quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch vùng bờ là công cụ quan trọng để thực hiện quản lý tổng hợp.
[/accordion-item]
[accordion-item title=”Q5: Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam được định hướng trở thành quốc gia biển như thế nào?”]
A5: Đến năm 2045, Việt Nam được định hướng trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn. Kinh tế biển sẽ đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc gia, giúp Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời chủ động tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế về biển.
[/accordion-item]
[/accordion]