Những thay đổi của Quy chế đào tạo tiến sĩ từ năm 2017 theo Thông tư 08/2017/TT-BGD-ĐT
Bộ GD-ĐT vừa chính thức ban hành Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh trình độ đào tạo tiến sĩ và quản lý hoạt động chương trình đào tạo tiến sĩ. Quy chế này có hiệu lực từ 18 tháng 5 năm 2017 thay thế quy chế ban hành năm 2009 và sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Quy chế mới có cấu trúc ngắn gọn hơn, đảm bảo nâng cao tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo tuy nhiên, các điều kiện đối với nghiên cứu sinh cũng như người hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS) thì siết chặt hơn.
“Siết” từ đầu vào
Theo quy định mới mới, muốn học tiến sĩ, các ứng viên phải có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học loại giỏi. Theo quy định cũ, những người tốt nghiệp đại học loại khá cũng có thể ứng tuyển tiến sĩ.
Điểm mới trong yêu cầu “đầu vào” là các ứng viên phải là tác giả hoặc đồng tối thiểu 1 bài báo liên quan đến lĩnh vực hoặc đề tài nghiên cứu dự kiến đăng trên các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc 1 báo cáo đăng tại kỷ yếu của các hội nghị, hội thảo khoa học trong hoặc ngoài nước.
Các bài báo hoặc báo cáo này được đăng tải trong thời hạn 3 năm tính đến ngày đăng ký dự tuyển.
Bên cạnh đó, thay vì yêu cầu trình độ ngoại ngữ đối với NCS trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ như quy định hiện hành, quy chế mới đặt ra yêu cầu về ngoại ngữ ngày từ khi các ứng viên tham gia dự tuyển.
Cụ thể, các ứng viên phải đảm bảo có chứng chỉ tiếng Anh TOEFL iBT từ 45 trở lên hoặc Chứng chỉ IELTS (Academic Test) từ 5.0 trở lên hoặc Chứng chỉ TOEIC từ 500 điểm trở lên do một tổ chức khảo thí được quốc tế và Việt Nam công nhận cấp trong thời hạn 2 năm (24 tháng) kể từ ngày cấp đến ngày đăng ký dự tuyển.
Quy định mới mới cũng không sử dụng các chứng chỉ ngoại ngữ theo chuẩn châu Âu hiện được 10 trường ĐH thi và cấp chứng chỉ như trước đây mà chỉ sử dụng các chứng chỉ quốc tế tương đương.
Đối với những người dự tuyển có các chứng chỉ ngôn ngữ khác đủ điều kiện, quy chế mới vẫn yêu cầu người dự tuyển phải phải có khả năng giao tiếp được bằng tiếng Anh trong chuyên môn (có thể diễn đạt những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn cho người khác hiểu bằng tiếng Anh và hiểu được người khác trình bày những vấn đề chuyên môn bằng tiếng Anh).
Tuy vậy, quy định mới không quy định rõ các cơ sở đào tạo tiến sĩ làm cách nào để kiểm tra khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của các ứng viên.
Thời gian đào tạo không quá 5 – 6 năm
Bên cạnh “siết” các điều kiện đầu vào, quá trình đào tạo tiến sĩ cũng được quy định chặt chẽ theo hướng nâng cao chất lượng.
Theo đó, thời gian đào tạo tiến sĩ vẫn là 3 – 4 năm tùy từng đối tượng (có bằng thạc sĩ hoặc tốt nghiệp đại học) theo quy định tại Luật GD ĐH. Tuy nhiên, thí sinh chỉ được phép gia hạn tối đa là 2 năm.
Như vậy, tổng thời gian đào tạo tiến sĩ là theo quy định mới từ 5 – 6 năm kể từ khi có quyết định công nhận NCS.
Theo quy định hiện hành, tổng thời gian hoàn thành chương trình của NCS có thể kéo dài tới 7 – 8 năm.
Bên cạnh đó, quy định mới cũng nêu rõ, trong thời gian gia hạn (2 năm), NCS phải theo học tập trung liên tục tại cơ sở đào tạo.
Hết thời gian gia hạn, nếu luận án của NCS không được Hội đồng đánh giá luận án cấp trường, viện thông qua thì thủ trưởng cơ sở đào tạo quyết định cho NCS thôi học. Kết quả học tập của chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ không được bảo lưu.
2 bài báo quốc tế mới được bảo vệ luận án
Quy định mới về điều kiện bảo vệ luận án của NCS cũng được thắt chặt hơn so với trước.
Cụ thể, quy định mới yêu cầu NCS phải công bố nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án trong tối thiểu 2 bài báo, trong đó có ít nhất 1 bài đăng trong tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI/ Scopus hoặc 2 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện (Peer Review) hoặc 2 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện khác.
Quy định mới cũng yêu cầu toàn văn luận án và tóm tắt luận án hoàn chỉnh có chữ ký của NCS, chữ ký của người hướng dẫn và của thủ trưởng cơ sở đào tạo sau khi đã sửa chữa, bổ sung, phải được đăng trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo và nộp Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Người hướng dẫn phải có công bố quốc tế
Các tiêu chuẩn, điều kiện đối với người hướng dẫn NCS cũng được nâng cao so với quy định hiện hành.
Cụ thể, người hướng dẫn chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư hoặc có bằng tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ, chuyên môn phù hợp với đề tài luận án hoặc lĩnh vực nghiên cứu của NCS.
Đối với người chưa có chức danh giáo sư, phó giáo sư thì phải có tối thiểu 3 năm nghiên cứu hoặc giảng dạy kể từ khi được cấp bằng tiến sĩ khoa học hoặc tiến sĩ.
Bên cạnh đó, người hướng dẫn phải chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở trở lên.
Điểm quan trọng nhất đối với điều kiện của người hướng dẫn NCS chính là, họ phải có tối thiểu 1 bài báo đăng trên các tạp chí ISI hoặc Scopus hoặc 1 sách tham khảo của các nhà xuất bản nước ngoài có mã số chuẩn quốc tế ISBN.
Nếu không đạt điều kiện trên, người hướng dẫn cũng có thể có 2 báo cáo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện khác thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án của NCS.
Trường hợp người hướng dẫn độc lập là tiến sĩ nhưng chưa có chức danh GS, PGS thì phải có thêm 1 bài báo hoặc công trình đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục ISI/ Scopus.
Quy định mới cũng yêu cầu người hướng dẫn phải có năng lực ngoại ngữ để phục vụ nghiên cứu vào trao đổi khoa học quốc tế.
Quy định mới cũng cho phép các GS, PGS được hướng dẫn đồng thời nhiều NCS hơn so với quy định hiện hành. Tuy nhiên, quy định mới yêu cầu người hướng dẫn không được nhận thêm NCS mới nếu trong vòng 6 năm tính đến thời điểm giao nhiệm vụ có 2 NCS không hoàn thành chương trình đào tạo hoặc luận án không được hội đồng cấp trường/ viện thông qua.
Bên cạnh tiêu chuẩn đối với người hướng dẫn, quy định mới cũng đưa ra yêu cầu về công bố quốc tế đối với hội đồng đánh giá luận văn.
Cụ thể, ngoài chức danh GS, PGS, TS, thành viên hội đồng phải có công trình nghiên cứu, có uy tín và kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của NCS, trong đó người phản biện phải có tối thiểu 1 bài báo hoặc báo cáo khoa học đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện hoặc trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện.
Lộ trình thực hiện
Yêu cầu người hướng dẫn và NCS trước khi bảo vệ luận án phải có công bố quốc tế được chia làm 2 giai đoạn: Trước 31/12/2018 và từ 1/1/2019 trở đi.
Cụ thể, đối với các khóa tuyển sinh từ thời điểm quy định mới có hiệu lực (18/5/2017) đến hết ngày 31/12/2018:
Người hướng dẫn đề tài thuộc nhóm ngành 1 (nhóm ngành KHXH-NV, Kinh doanh, quản lý, nghệ thuật…) chỉ cần là tác giả chính của tối thiểu 1 bài báo bằng tiếng nước ngoài đăng trên các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí khoa học chuyên ngành của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước hoặc trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín của nước ngoài thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án của NCS.
Đối với người hướng dẫn đề tài nhóm ngành 2 (khoa học tự nhiên, sự sống, y tế…) chỉ cần là chính tối thiểu 1 báo cáo hoặc công trình khoa học đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc ít nhất một chương sách tham khảo có mã số chuẩn quốc tế ISBN do các nhà xuất bản nước ngoài phát hành hoặc 1 bài báo đăng trong tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án của NCS.
Tương tự, NCS thuộc nhóm ngành 1 chỉ cần phải công bố nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án trong tối thiểu 2 bài báo hoặc báo cáo, trong đó có 1 bài báo bằng tiếng nước ngoài trên các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí khoa học chuyên ngành của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước hoặc trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín của nước ngoài.
NCS thuộc nhóm ngành 2 chỉ phải công bố nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án trong tối thiểu 2 bài báo hoặc báo cáo, trong đó có 1 báo cáo đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 1 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Kể từ ngày 1/1/2019, thực hiện như quy định mới.