Ảnh hưởng của môi trường đô thị do quá trình đô thị hóa
Ảnh hưởng của môi trường đô thị do quá trình đô thị hóa
A, Khái niệm môi trường đô thị
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo từng đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .Theo “ Luật bảo vệ môi trường” năm 1993 thì khái niệm môi trường như sau:
“ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiờn nhiờn” ( Điều 1. Luật bảo vệ môi trường Việt Nam).
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa sinh, sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của từng cá nhân, từng cộng động và toàn bộ loài người trên hành tinh.
Xét theo quan điểm nghiên cứu đô thị, môi trường đô thị là môi trường sống của con người tại khu vực đô thị. Môi trường đô thị là vấn đề quan tâm của các nhà quản lý, kỹ thuật, chính trị và xã hội ngay từ khi hình thành các đô thị. Tuy nhiên mức độ quan tâm và cách thức tiếp cận mỗi thời mỗi khác.
Lịch sử phát triển của đô thị và đô thị cho thấy chính cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho vấn đề môi trường đô thị được quan tâm theo một giác độ mới. Đó là vấn đề môi trường đô thị gắn với sử dụng tài nguyên, quản lý môi trường sinh thái đô thị và phát triển bền vững. Cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỷ XIX, dân cư tập trung tại các đô thị châu Âu làm cho điều kiện vệ sinh giảm sút nghiêm trọng. Ô nhiễm do thiếu thốn hệ thống vệ sinh và nước sạch là nguyên nhân của các đại dịch tả, thương hàn làm chết hàng chục vạn người. Trước bối cảnh đó, việc quy hoạch và quản lý môi trường được đặt ra và đã xây dựng cách tiếp cận mới về môi trường đô thị và quản lý môi trường đô thị.
Môi trường đô thị là môi trường xây dựng mang tính nhân tạo nhiều hơn là tự nhiên, có nghĩa là để tạo dựng môi trường sống cho mình ở đô thị, con người biến đổi tự nhiên cho phù hợp với điều kiện sống và làm việc. Dù biến đổi ra sao thì môi trường đô thị vẫn mang tính một hệ sinh thái, có nghĩa nó luụn ở trạng thái cân bằng động với sự cân đối giữa nguồn ra vào về năng lượng, vật chất về mọi phương diện.
Khi hệ thống có sự biến động, nó sẽ tự điều chỉnh để giữ cân bằng. Tuy nhiên, khả năng tự điều chỉnh chỉ trong một giới hạn gọi là ngưỡng sinh thái. Như vậy, vấn đề khả năng chịu đựng của hệ sinh thái là vấn đề mấu chốt trong phát triển bởi vượt qua ngưỡng này, môi trường đô thị sẽ suy thoái và đô thị không thể phát triển bền vững .
B, Các nhân tố tác động đến môi trường đô thị
Đô thị hóa tác động trực tiếp đến môi trường đô thị. Quá trình đô thị hóa gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, tăng quy mô, mật độ dân số, tăng trưởng kinh tế. Thiên nhiên đô thị bị biến đổi mạnh mẽ dưới áp lực cuộc sống công nghiệp. Sự biến đổi các thành phần môi trường theo hướng xấu đi trong quá trình đô thị hóa của các nước trên thế giới là một hiện tượng mang tính quy luật không thể phủ nhận, đặc biệt với các nước đang phát triển. Mức độ và tốc độ xuống cấp của môi trường tùy thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế và chính sách bảo vệ môi trường cuat mỗi quốc gia.
Theo quy luật chung thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì nguy cơ xuống xấp môi trường càng lớn. Khi kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư đô thị chưa cao thì nhận thức về vấn đề môi trường bị hạn chế.
– Sự tăng trưởng các ngành kinh tế
Sự tăng trưởng nhanh chóng của các ngành công nghiệp làm tăng khí thải, rác thải, nước thải làm biến đổi các thành phần của môi trường không khí, đất, nước…Vấn đề rác thải là vấn đề lớn ở các đô thị hiện nay cũng như trong tương lai. Khối lượng rác thải rắn tăng lên cùng quá trình đô thị hóa, quá trình phát triển kinh tế, tăng quy mô dân số, tăng mức sống, tăng thu nhập. Rác thải từ các doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng, thương mại, từ các bệnh viện, hộ gia đình. Sự nguy hiểm của ô nhiễm do rác thải rắn là thành phần của rác đa dạng , gây ô nhiễm không khí, nước, mất mỹ quan đô thị. Sự nguy hiểm của ô nhiễm do rác thải bệnh viện là rác thải mang mầm bệnh có thể gây dịch lớn cho cả cộng đồng. Chất thải từ các nhà máy tăng nhanh. Các ngành công nghiệp tăng trưởng cả về số lượng các nhà máy, quy mô các nhà máy. Lượng nhiên liệu tiêu dùng tăng làm lượng nhiên liệu thải ra môi trường tăng, việc đốt phế thải, khí độc rò rỉ trong quá trình sản xuất, đặc biệt là công nghiệp hóa chất làm môi trường bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng .
– Tăng trưởng dân số đô thị
Dân số đô thị tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh vấn đề tăng tự nhiên cũn cú một nguyên nhân khác dẫn đến gia tăng dân số đô thị là tăng cơ học hay di dân từ nông thôn vào đô thị. Các nghiên cứu cho thấy có nhiều dạng di dân như nông thôn – nông thôn, thành thị – thành thị, nông thôn – thành thị và thành thị – nông thôn, người di dân tự do thường có mong muốn và xu hướng chuyển theo hướng nông thôn – thành thị để tìm kiếm cơ hội công ăn việc làm.
– Sự gia tăng số lượng phương tiện giao thông
Trong quá trình đô thị hóa, số lượng phương tiện giao thông tăng nhanh, đặc biệt là xe gắn máy, chất lượng phương tiện giao thông không được kiểm soát chặt chẽ, nhiên liệu dư trong quá trình đốt, khói bụi làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng.Vấn đề ô nhiễm nước mặt và nước ngầm từ nhiều nguồn khác nhau do nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt..Nhiều ao hồ chứa bị san lấp để xây dựng các công trình, cơ sở hạ tầng.
– Khai thác tài nguyên
Quá trình đô thị hóa sử dụng nhiều tài nguyên, trong đó có rất nhiều tài nguyên không thể tái tạo hoặc chậm tái tạo. Từ vật liệu xây dựng cho đến thực phẩm, nước, không khí và đất đai, đô thị hóa không những sử dụng rất nhiều tài nguyên không tái tạo được mà còn thải ra môi trường xung quanh những chất độc hại. Do đó, sự tồn tại của đô thị cần rất nhiều không gian để chôn lấp chất thải và những khoảng đệm sinh thái đủ lớn để các tài nguyên có thể tái tạo được.
Những nguồn tài nguyên quan trọng nhất là tài nguyên đất, nước bị khai thác quá mức trong quá trình đô thị hóa.