Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Đã có rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Các yếu tố vĩ mô được xem xét trong các nghiên cứu:
Rajan & Dhal (2003), phân tích nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Ấn Độ với kết quả nghiên cứu quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê và tác động ngược chiều đến nợ xấu, tăng trưởng GDP cao phản ánh điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi và môi trường kinh doanh tốt thì nợ xấu có xu hướng giảm.
Fofack (2005), nghiên cứu rủi ro tín dụng, tỷ lệ nợ xấu vùng tiểu bang châu phi Sahara trong năm 1990. Kết quả cho thấy yếu tố vĩ mô GDP tác động ngược chiều lên nợ xấu, một cuộc suy thoái kinh tế kéo dài làm tăng nợ xấu. Những thay đổi lãi suất có dấu hiệu tích cực với nợ xấu, và tỷ lệ lạm phát làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
Berge và Boye (2007), nghiên cứu về hệ thống ngân hàng Bắc Âu trong giai đoạn 1993-2005, kết luận rằng các khoản cho vay có vấn đề có liên quan đáng kể đến mức lãi suất thực và tỷ lệ thất nghiệp.
Ali và Daly (2010), sử dụng phương pháp phân tích so sánh để điều tra các biến kinh tế vĩ mô quan trọng đối với hai nước Úc và Mỹ. Họ cũng nghiên cứu các tác động của các cú sốc kinh tế vĩ mô đến tỷ lệ vỡ nợ ở cả hai nước. Kết quả cho thấy rằng với cùng một yếu tố kinh tế vĩ mô sẽ tác động khác nhau đến tỷ lệ vỡ nợ của 2 nước, mặc dù nền kinh tế Mỹ có nhiều nhạy cảm hơn với tác dụng phụ của những cú sốc kinh tế vĩ mô.
Festic et al. (2011), nghiên cứu một dữ liệu bảng cho 5 nước thành viên mới của EU (Bulgaria, Romania, Estonia, Latvia và Lithuania). Họ phân tích các mối quan hệ giữa tỷ lệ của các khoản nợ xấu và các biến kinh tế vĩ mô. Họ nhận ra rằng sự suy giảm trong hoạt động kinh tế, tăng trưởng tín dụng và tài chính, và thiếu sự giám sát gây ra một sự suy giảm trong việc xử lý nợ xấu.
Kester Guy và Shane Lowe (2011), nghiên cứu về nợ xấu và sự bền vững ngân hàng tại Barbados từ 1996 – 2010. Tăng trưởng GDP với việc mở rộng kinh tế sẽ giảm nợ xấu. Khi lạm phát tăng dẫn đến giảm tỷ lệ nợ xấu; phát hiện thấy lãi suất có tác động nghịch chiều liên quan đến nợ xấu, giải thích cho điều này là khi nền kinh tế tăng trưởng và mở rộng tín dụng, lãi suất trong hệ thống ngân hàng có xu hướng di chuyển lên cùng lúc.
Bofondi, Marcello và Tiziano Ropele (2011), nghiên cứu các yếu tố vĩ mô tác động đến chất lượng các khoản vay đối với hộ gia đình và doanh nghiệp tại ngân hàng ở Italy từ 1990-2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng GDP và cùng chiều tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất.
Castro (2013), xem xét mối liên hệ giữa phát triển kinh tế vĩ mô và RRTD với mẫu nghiên cứu là 5 ngân hàng châu Âu (Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, và Ý). Kết quả chỉ ra rằng RRTD ngân hàng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự tăng trưởng GDP, chỉ số giá nhà ở, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, tỷ giá hối đoái thực, và cuộc khủng hoảng tài chính gần đây.
Andriani, Wiryono (2015) tìm các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng từ năm 2002 đến năm 2013 của các ngân hàng Indonesia. Sử dụng biến nợ xấu để đại diện cho rủi ro tín dụng, bài nghiên cứu xem xét mức độ ảnh hưởng của các biến trong nội tại ngân hàng đến đến rủi ro tín dụng. Phương pháp ước lượng GLS được cho là hợp lý hơn phương pháp OLS với những thay đổi trong phương sai phần dư.
Mặt khác, cũng có rất nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra một số đặc điểm trong ngân hàng cũng có liên quan đến các khoản cho vay có vấn đề. Tại Ấn Độ, Rajaraman et al. (1999) đã kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến các khoản cho vay có vấn đề. Tuy nhiên nghiên cứu giới hạn trong một năm (1996- 1997) và sử dụng các biến vĩ mô để giải thích các khoản vay có vấn đề, đây là một hạn chế của mô hình. Bởi vì, các nhà nghiên cứu cho rằng các khoản vay có vấn đề là kết quả của cả kinh tế vĩ mô cũng như các yếu tố kinh tế vi mô. Trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người đi vay sẽ giảm, kết quả là họ sẽ khó trả nợ hơn, qua đó có thể phát sinh nhiều khoản vay có vấn đề. Đồng thời, các yếu tố trong nội bộ ngân hàng, chẳng hạn như hiệu quả hoạt động thấp và việc mở rộng quá nhiều chi nhánh cũng có thể dẫn đến sự gia tăng của các khoản vay có vấn đề.
Khemraj & Pasha (2009), nghiên cứu các yếu tố quyết định đến nợ xấu ở Guyana 1994-2004, kết quả cho thấy quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê và tác động tích cực đến nợ xấu, tăng trưởng GDP tỷ lệ nghịch với các nợ xấu, sự cải thiện trong nền kinh tế sẽ làm nợ xấu thấp hơn. Các ngân hàng tính lãi suất tương đối cao hơn và cho vay quá mức có thể sẽ phải chịu nợ xấu cao hơn, một ngân hàng tăng lãi suất điều này có thể tăng nợ xấu.
Sau khi lược khảo một số các nghiên cứu trước, có thể nhận thấy rằng để tìm hiểu các yếu tố tác động đến RRTD, hầu hết các nghiên cứu các yếu tố quyết định tỷ lệ nợ xấu. Salas và Saurina (2002), đã kết hợp các biến kinh tế vĩ mô và vi mô để nghiên cứu sự tác động đến nợ xấu của ngân hàng Tây Ban Nha trong giai đoạn 1985- Kết luận yếu tố nội tại của ngân hàng có thể sử dụng như là chỉ số cảnh báo sớm cho những thay đổi trong tỷ lệ nợ xấu trong tương lai. Kết quả cho thấy ngân hàng có quy mô lớn hơn sẽ có nợ xấu ít hơn, tăng trưởng tín dụng nhiều sẽ dẫn tới nợ xấu nhiều hơn. Ngoài ra, còn phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng GDP và tỷ lệ nợ xấu.
Boudriga et al. (2009), nghiên cứu các yếu tố từ phía ngân hàng, môi trường kinh doanh và môi trường thể chế của 46 ngân hàng tại 12 Quốc gia của vùng Trung Đông và Bắc Phi: trong giai đoạn 2002-2006. Kết quả cho thấy sự tham gia của nước ngoài đến từ các nước phát triển sẽ làm giảm nợ xấu. Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy các ngân hàng quốc doanh gặp nợ xấu cao hơn. Quy mô vốn lớn thì nợ xấu lớn, tăng trưởng tín dụng cao thì giảm nợ xấu. Trong môi trường kinh doanh chất lượng thông tin được chia sẻ giữa ngân hàng và khách hàng tỷ lệ nghịch với nợ xấu, tăng cường chất lượng của môi trường thể chế sẽ làm giảm nợ xấu.
Zribi và Boujelbène (2011), xem xét cả hai biến kinh tế vĩ mô và vi mô có khả năng kiểm soát RRTD. Sử dụng dữ liệu bảng cho 10 NHTM Tunisia trong giai đoạn 1995-2008. Kết luận rằng các yếu tố quyết định chính đến RRTD của các ngân hàng ở Tunisia là cơ cấu sở hữu, các quy định bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận và các chỉ số kinh tế vĩ mô (tăng trưởng nhanh chóng của GDP, lạm phát, tỷ giá hối đoái, và lãi suất).
Louzis et al. (2012) sử dụng phương pháp Dynamic Panel Data trong giai đoạn 2003-2009 để nghiên cứu các yếu tố kinh tế vĩ mô và các biến trong ngân hàng ảnh hưởng đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của Hy Lạp với các khoản vay (cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh, và thế chấp). Tác giả nhận thấy rằng các khoản vay có vấn đề trong hệ thống ngân hàng Hy Lạp được giải thích chủ yếu là do các biến kinh tế vĩ mô (tăng trưởng GDP thực tế, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, và nợ công). Ngoài ra, những vấn đề này được giải thích bởi một số yếu tố trong ngân hàng cụ thể như các chỉ số hiệu suất và hiệu quả. Chỉ số ROE và ROA được tìm thấy tác động nghịch chiều đến nợ xấu. Chỉ số thiếu hiệu quả tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê với nợ xấu.
Xem thêm: Tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Ahlem Selma Messai (2013), nghiên cứu yếu tố tác động đến nợ xấu của 85 ngân hàng trong ba nước (Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha) trong giai đoạn 2004-2008, những quốc gia đã phải đối mặt với vấn đề tài chính sau cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn vào năm 2008. Sử dụng dữ liệu bảng, nghiên cứu nhận thấy tốc độ tăng trưởng của GDP, ROA tác động nghịch chiều với nợ xấu, tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất tác động tích cực với nợ xấu.
Marijana Curak, Sandra Pepur và Klime Poposki (2013), nghiên cứu các yếu tố quyết định nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Đông Nam Châu Âu với mẫu là 69 ngân hàng tại 10 quốc gia trong giai đoạn 2003-2010. Kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát cao và lãi suất cao làm tăng nợ xấu. Ngoài ra, tác giả còn tìm thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu, các ngân hàng lớn có thể giải quyết tốt vấn đề thông tin bất cân xứng. Với nhân viên có kinh nghiệm và trình độ cao và thông tin có chất lượng tốt, các ngân hàng lớn sẽ hiệu quả hơn trong phân tích tín dụng và giám sát các khoản cho vay tới khách hàng.
Tehulu và cộng sự (2014), nghiên cứu được thực hiện để kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Ethiopia. Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng cho nghiên cứu này với dữ liệu bảng được thu thập từ 10 NHTM Nhà nước và tư nhân từ năm 2007 đến năm 2011. Phân tích sử dụng hiệu ứng ngẫu nhiên GLS hồi quy với kết quả hồi quy cho thấy tăng trưởng tín dụng và quy mô của ngân hàng có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê đến rủi ro tín dụng. Trong khi đó, hoạt động kém hiệu quả và tỷ lệ sở hữu có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến rủi ro tín dụng. Cuối cùng, kết quả cho thấy lợi nhuận, an toàn vốn và thanh khoản ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều nhưng không đáng kể về mặt thống kê đối với RRTD.
Hasna Chaibi và Zied Ftiti (2015), nghiên cứu tiếp cận phương pháp Dynamic Panel Data để kiểm tra yếu tố tác động đến nợ xấu của các NHTM trong nền kinh tế thị trường (đại diện là Pháp), so với một nền kinh tế dựa trên ngân hàng (đại diện là Đức), trong 2005-2011. Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng tín dụng cho rằng có những hiệu ứng khác nhau giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau. Các câu hỏi chính được thảo luận là các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng của hai nước. Kết quả chỉ ra rằng ngoại trừ các tỷ lệ lạm phát, tập hợp các biến kinh tế vĩ mô được sử dụng đều ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của cả nền kinh tế. Kết quả này được giải thích bởi thực tế là cả hai nền kinh tế thuộc khu vực đồng tiền chung Euro. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy rằng so với Đức, nền kinh tế Pháp là nhạy cảm hơn với yếu tố trong nội tại ngân hàng.
Đào Thị Thanh Bình và Đỗ Vân Anh (2013), sử dụng dữ liệu bảng nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu với mẫu 14 NHTM Việt Nam từ 2008-2012, kết quả cho thấy các biến kinh tế vĩ mô là không có ý nghĩa đáng kể về mặt thống kê khi tác động đến các khoản nợ xấu. Quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê, thể hiện mối quan hệ đồng biến với nợ xấu, điều đó chỉ ra rằng giả thuyết “quá lớn để sụp đổ” là đúng trong bối cảnh của Việt Nam. Tỷ số ROE có tác động nghịch chiều đến tỷ lệ nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của các năm trước cao có thể làm cho vấn đề hiện tại trở nên nghiêm trọng hơn.
Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) cũng sử dụng dữ liệu bảng được để nghiên cứu 10 ngân hàng từ năm 2005 đến 2011 về các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu. Kết quả cho thấy các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng GDP tác động đáng kể đến nợ xấu trong giai đoạn nghiên cứu. Tỷ lệ nợ xấu của năm trước và mức độ tăng trưởng tín dụng ảnh hưởng mạnh lên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Nghiên cứu còn chỉ rằng một ngân hàng có mức nợ xấu cao hiện tại sẽ có tỷ lệ nợ xấu cao trong năm tiếp theo, tăng trưởng tín dụng cao chưa làm tăng nợ xấu ngay lập tức mà sẽ có một độ trễ sau một năm. Ngân hàng dành ít nỗ lực để đảm bảo chất lượng khoản vay sẽ có chi phí hoạt động thấp, đồng thời cũng dẫn đến nợ xấu cao hơn. Quy mô có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, ngân hàng lớn thường mạo hiểm hơn trong việc cho vay, nợ xấu sẽ cao hơn. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản tác động tích cực lên nợ xấu, ngân hàng chấp nhận rủi ro cao khả năng dẫn đến nợ xấu cao.
Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toản (2014), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng trên 26 NHTM giai đoạn 2009 – 2012. Dữ liệu bảng với phương pháp GMM được sử dụng để khắc phục hiện tượng tự tương quan bậc nhất giữa các sai số và hiện tượng biến nội sinh để đảm bảo các ước lượng thu được vững và hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro tín dụng ngân hàng trong quá khứ với độ trễ một năm (LLRi,t-1), tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong quá khứ với độ trễ một năm (LGi,t-1) và tỷ lệ tăng trưởng GDP trong quá khứ với độ trễ một năm (∆GDPi,t-1) tác động có ý nghĩa đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam.
Nguyễn Thị Ngọc Diệp và Nguyễn Minh Kiều (2015), nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, bằng cách sử dụng dữ liệu bảng với phương pháp hồi quy bình phương bé nhất (OLS). Từ đó, đưa ra một số gợi ý đối với nhà đầu tư cá nhân và góp phần giúp các nhà quản lý ngân hàng nhận diện tác động ngược chiều của các yếu tố đặc điểm ngân hàng đến RRTD, giúp kiểm soát tốt các tác động từ việc đẩy mạnh cho vay. Dữ liệu trong nghiên cứu được thu thập từ số liệu trong báo cáo tài chính của 32 NHTM Việt Nam từ năm 2010 đến 2013. Nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng là: tăng trưởng tín dụng, quy mô dư nợ, và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động cho vay.