Những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn BASEL II tại Vietcombank
Những hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn BASEL II tại Vietcombank
Theo đánh giá chung, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức khi dự thảo Hiệp ước Basel II được chính thức thông qua. Thật vậy, khi bước đầu áp dụng hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank đã bộc lộ những hạn chế sau:
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng; công tác thanh tra kiểm soát và công bố thông tin của Vietcombank chưa thực sự hợp lý dẫn đến chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm:
Có thể đánh giá quy trình hoạt động tín dụng tại một số NHTM nói chung và tại Vietcombank nói riêng chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tối thiểu để quản trị rủi ro. Chẳng hạn, chưa có sự phân tách chức năng rõ ràng giữa bộ phận giao dịch khách hàng (front office) với bộ phận thẩm định lại, theo dõi khách hàng, xử lý giao dịch (back office). Tại hầu hết các ngân hàng, cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ tiếp xúc với khách hàng cũng làm cả việc theo dõi sau cho vay và phân tích tình hình tài chính của khách hàng sau cho vay. Điều này làm mất tính khách quan, dễ dẫn đến móc ngoặc, lợi dụng giữa khách hàng và cán bộ tín dụng.
Mô hình tổ chức Trụ sở chính – Chi nhánh cấp 1 – Chi nhánh cấp 2 là một mô hình phân tán, không phù hợp với bản chất hoạt động ngân hàng. Các chi nhánh cấp tỉnh được quyền thẩm định dự án và quyết định tín dụng ngay tại chi nhánh, dẫn đến thiếu chuyên môn hoá. Chức năng quản lý, giám sát của Trụ sở chính không phát huy hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện phương tiện liên lạc, truyền thông, viễn thông và hạ tầng cơ sở của Việt Nam còn chưa phát triển. Nghiên cứu các mô hình tổ chức của các NHTM nước ngoài cho thấy các NHTM này tập trung hoá chức năng về các trung tâm theo khu vực, và các chi nhánh hoàn toàn làm nhiệm vụ của bộ phận quan hệ khách hàng. Toàn bộ công tác thẩm định, định giá, theo dõi sau cho vay, xử lý nợ… được thực hiện tại các trung tâm với số lượng cán bộ lớn, có trình độ cao, kinh nghiệm lâu năm và kiến thức sâu, rộng về các ngành hàng, ngành kinh tế. Ngay tại trung tâm đó, cũng chia thành tối thiểu 3 bộ phận quản lý một khoản tín dụng: bộ phận quan hệ khách hàng, bộ phận thẩm định và quyết định tín dụng, bộ phận quản lý nợ xấu và thu hồi nợ. Trong ngân hàng chưa có phòng chuyên về quản trị các loại rủi ro cá biệt. Các phòng khách hàng đồng thời phụ trách luôn công tác theo dõi, rà soát, phê duyệt. Việc phân định trách nhiệm trong Ban Điều hành không hợp lý, thể hiện nhiều trường hợp một thành viên trong Ban Điều hành vừa phụ trách hoạt động kinh doanh (ví dụ: tín dụng, đầu tư…), vừa phụ trách công tác quản trị rủi ro hoặc kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đây cũng chính là tồn tại khiến hoạt động kiểm tra, kiểm soát còn chồng chéo, chưa rõ ràng trách nhiệm của các bộ phận liên quan.
>>> Xem thêm: Kết quả đạt được trong công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn BASEL II tại Vietcombank
Thứ hai, các quy định, chính sách về quản trị rủi ro tín dụng chưa đồng bộ trong toàn hệ thống của Vietcombank.
Điều này thể hiện rõ nhất ở việc là: theo một đề án của NHNN Việt Nam do Ngân hàng thế giới tài trợ, lúc đó các NHTM Việt Nam mới được yêu cầu xây dựng sổ tay tín dụng sử dụng trong hoạt động cho vay, cầm cố, thế chấp. Tuy nhiên, các tài liệu này ở nhiều nơi mang tính hình thức, không được coi là cơ sở cho mọi quyết định tín dụng. Mặt khác, hầu hết các quy trình sau chưa có hoặc chưa đầy đủ, không mang tính hệ thống tại các NHTM Việt Nam nói chung và tại Vietcombank nói riêng:
+ Quy trình về Thanh toán XNK và Tài trợ thương mại
+ Quy trình về Xử lý nợ tồn đọng và Thu hồi nợ
+ Quy trình về Kinh doanh ngoại tệ
+ Quy trình về Cân đối vốn (Banking book) và Đầu tư (Trading book)
+ Quy trình Rà soát, giám sát và kiểm toán (hay đảm bảo tuân thủ)
+ Quy trình thu thập, tổng hợp và công bố thông tin
Thứ ba, năng lực trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ hiện đại.
Đây là một thực tế chung không chỉ của Vietcombank mà của toàn ngành ngân hàng, Hầu như các kinh nghiệm, kiến thức về quản trị rủi ro nói chung, quản trị rủi ro tín dụng nói riêng còn sơ khai. Hầu như các phương pháp quản trị rủi ro như thống kê, lượng hoá, các công cụ như mô hình hoá, dự báo… sử dụng những tham số kinh tế lượng (VAR, an-pha, bê-ta, độ lồi, tuyến tính…) chưa được áp dụng tại bất kỳ NHTM nào. Các NHTM hiện nay đang đứng trước thách thức chảy máu chất xám và thiếu nghiêm trọng về nhân lực trình độ cao. Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học cao (từ 40% đến 70%) không có nghĩa là năng lực trong công việc đủ đáp ứng yêu cầu, do khâu đào tạo tại các bậc đại học còn yếu kém, hơn nữa trong bản thân ngân hàng không có chính sách đào tạo lại và đào tạo nâng cao. Trong khi công nghệ thông tin đang ngày càng trở nên quan trọng và là động lực hoạt động và phát triển của NHTM, số lượng cán bộ công nghệ thông tin có trình độ sẵn sàng làm cho ngân hàng không phát triển, thậm chí còn giảm đi do chuyển sang các công ty tin học, phần mềm có thu nhập cao hơn. Trong khi đó lại thiếu cơ chế khuyến khích, động viên, thu hút, nuôi dưỡng nhân lực.
Thứ tư, công nghệ trang bị tại Vietcombank chưa đáp ứng được công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II.
Tính đến trước thời điểm năm 2005, hầu hết các NHTM vận hành và quản lý hoạt động của mình trên những hệ thống phân tán, không tập trung. Dữ liệu không được lưu trữ và xử lý đáp ứng yêu cầu quản trị kinh doanh. Kể cả những ngân hàng tiên tiến nhất về công nghệ trong đó có Vietcombank vẫn sử dụng những hệ thống độc lập để quản lý các nghiệp vụ khác nhau. Tại Vietcombank, tiền gửi được quản lý bằng chương trình SAMIS, kế toán và cho vay quản lý trong chương trình MISAC… Từ năm 2005 đến nay, các NHTM này mới đầu tư một hệ thống ngân hàng cốt lõi gồm những cấu phần chủ yếu như: Tiền gửi, cho vay, sổ cái, tài trợ thương mại, ngân quỹ, thẻ…, tuy nhiên trình độ sử dụng còn thấp, vẫn phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài cung cấp giải pháp.
Thứ năm, hệ thống đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn của Basel II.
Hệ thống hỗ trợ đo lường, phân tích rủi ro tín dụng vẫn còn thiếu tính đồng bộ. Hiện nay, Vietcombank mới chỉ có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá rủi ro của khách hàng, tuy nhiên hệ thống này vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là:
Về hệ thống chỉ tiêu phân tích, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có đặc điểm hoạt động riêng của mình. Hệ thống các chỉ tiêu chấm điểm đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau có khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống các chỉ tiêu hiện tại vẫn còn chưa phản ánh được những đặc thù trong hoạt động của từng ngành riêng biệt.
Khả năng phân tích ngành nghề yếu kém, bên cạnh đó lại chưa có các bộ chỉ tiêu chuẩn vê từng ngành, do đó không đưa ra được các cảnh báo và định hướng cho hoạt động tín dụng, nhằm hạn chế đầu tư vào những ngành, thành phần kinh tế làm ăn kém hiệu quả. Điều này còn ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng khách hàng do cán bộ tín dụng thường cho điểm không chính xác các chỉ tiêu đánh giá ngành nghề theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Phương pháp xếp hạng còn mang tính chủ quan, phương pháp đánh giá hiện tại của Vietcombank đang áp dụng là phương pháp xếp hạng, trong đó cán bộ tín dụng là người trực tiếp cập nhật thông tin và cho điểm đối với từng chỉ tiêu đánh giá theo hướng dẫn cho điểm của Hội sở đã ban hành. Hiện tại một số chỉ tiêu phi tài chính được đánh giá cho điểm mang tính chất định tính, dựa trên sự đánh giá của cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý. Phương pháp này đòi hỏi cán bộ xếp hạng tín dụng phải am hiểu được tất cả các nội dung đánh giá, thu thập đầy đủ thông tin của khách hàng và đưa ra đánh giá mang tính chủ quan với các chỉ tiêu này. Cơ chế xếp hạng này chủ yếu được thực hiện thủ công bởi các cán bộ tín dụng và được lãnh đạo tín dụng phê duyệt nên kết quả chấm điểm và xếp hạng khách hàng không đảm bảo tính chính xác cao, dễ bị can thiệp bởi người thực hiện, đồng thời không tạo được cơ sở dữ liệu tích luỹ, phục vụ cho việc tính toán các tham số rủi ro trong công tác quản lý rủi ro của Ngân hàng.
Ngoài ra, nguồn tin sử dụng trong công tác xếp hạng tín dụng tại Vietcombank còn hạn chế do hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có thông tin về các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành, nhóm ngành nên việc phân tích xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Chính bản thân Vietcombank khi thực hiện xếp hạng tín dụng cũng phải tự tổng hợp số liệu từ các khách hàng của mình, cộng thêm kinh nghiệm của các chuyên gia để đưa ra số liệu chuẩn phục vụ cho việc đánh giá khách hàng. Các thông tin chuyên ngành mà các cán bộ trực tiếp đánh giá xếp hạng thu thập từ nhiều nguồn: Internet, doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh… Vietcombank chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho việc phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hệ thống chấm điểm khách hàng đang được sử dụng tại Vietcombank chưa bao hàm các cấu phần rủi ro PD (xác suất không trả được nợ), LGD (tổn thất do không trả nợ), EAD (điểm rủi ro tại điểm không trả được nợ) và M (kỳ hạn hiệu quả). Khả năng lượng hoá rủi ro tín dụng của hệ thống này kém. Các hệ thống hiện thời chưa thể cung cấp, đo lường khả năng dự báo của từng nhân tố rủi ro – thể hiện qua các trọng số cũng như của cả mô hình – thể hiện qua xác suất không trả được nợ của các khách hàng (PD), trong khi đó, theo thông lệ trên thế giới hiện đại, PD mới chính là nền tảng để xếp hạng khách hàng. Mức độ rủi ro tín dụng tiềm ẩn không thể lượng hoá, việc xếp hạng khách hàng vào các thang đã thiếu hẳn một cơ sở khách quan rõ ràng, nhất quán với tính chính xác không được đảm bảo. Một khi rủi ro tín dụng của ngân hàng không được lượng hoá dẫn đến hạn chế không thể thực hiện việc kiểm định hiệu lực của hệ thống: (i) sau khi ứng dụng vận hành, bằng cách so sánh PD ước lượng cho từng khách hàng và tỷ lệ vỡ nợ trung bình dài hạn thực tế các khách hàng thuộc hạng đó (ii) theo những biến động không ngừng trong thực trạng kinh doanh của các ngân hàng. Chính xuất phát từ việc thiếu hệ thống đo lường trên mà chiến lược hoạt động, chính sách, thủ tục, quyết định tín dụng cũng như xác định lãi suất cho vay của Vietcombank hầu hết đều mang tính chung chung, định tính, chưa có căn cứ định lượng cụ thể nên chưa có tính khoa học, chính xác cao.
Mặt khác, theo quy định hiện hành thì phương pháp xác định rủi ro tín dụng của Vietcombank hiện nay có sự khác biệt khá xa so với phương pháp xác định rủi ro tín dụng của Basel. Vì vậy, tác giả không thể thực hiện được việc so sánh về số tuyệt đối. Cụ thể, theo Hiệp ước Basel như đề cập tại chương I, rủi ro tín dụng được xác định chủ yếu dựa trên hệ thống phân loại nợ nội bộ (Internal Ratings Based – IRB) với hệ thống chỉ tiêu khá phức tạp nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ đối với từng khoản vay. Trong khi đó, việc phân loại nợ của Vietcombank hiện nay vẫn dựa trên các thông số có tính bề mặt như căn cứ chủ yếu vào số ngày gia hạn nợ và số ngày chuyển sang nợ quá hạn. Các yếu tố định tính khác phản ánh đúng chất lượng và khả năng thu nợ của khoản vay như tình hình tài chính của khách hàng, rủi ro trong kinh doanh của khách hàng, rủi ro phi tài chính… đều chưa được đưa vào hệ thống cho điểm tín dụng của Vietcombank.
Như vậy, có thể thấy Vietcombank vẫn chưa thực sự đủ điều kiện tốt cho việc áp dụng các phương pháp tiếp cận mới đối với rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel II và có thể thời gian để Vietcombank áp dụng thực tế sẽ còn dài so với lộ trình dự kiến của Ngân hàng Nhà nước là tháng 6/2016.