Các quan điểm lý thuyết về trách nhiệm xã hội (CSR)
Các quan điểm lý thuyết về trách nhiệm xã hội (CSR)
Mối quan hệ giữa đầu tư trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã được thảo luận trong nhiều lý thuyết nổi tiếng. Phần này tóm tắt các lý thuyết nền trong các nghiên cứu trước đó về trách nhiệm xã hội:
1. Lý thuyết cổ đông (Shareholder Theory)
Lý thuyết cổ đông có thể được coi là lý thuyết đầu tiên về trách nhiệm xã hội sẽ được sử dụng để hình thành khái niệm trách nhiệm xã hội. Quan điểm này xuất phát từ các lý thuyết của công ty với ý tưởng rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa hóa lợi nhuận của mình. Theo quan điểm ban đầu này, Friedman (1962, 1970) cho rằng các công ty chỉ nên tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận của mình và không bắt buộc phải làm bất cứ trách nhiệm xã hội nào. Nói cách khác, các cổ đông là những người quan trọng nhất và công ty cần phải sử dụng tất cả các nguồn lực của mình để gia tăng sự giàu có của cổ đông. Quan điểm này sau đó bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều học giả và các bên liên quan khác của công ty. Kết quả là, có rất nhiều lý thuyết đã xuất hiện để giải quyết những lời chỉ trích: Lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan, và mô hình kim tự tháp của trách nhiệm xã hội.
2. Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết này được phát triển đầu tiên bởi Jensen và Meckling (1976). Quan điểm của lý thuyết đại diện chỉ ra rằng luôn luôn có xung đột lợi ích giữa các cổ đông và các nhà quản lý doanh nghiệp. Cuộc xung đột này thường được đặt tên là “vấn đề đại diện”. Nhìn chung, một công ty bao gồm các nhóm lợi ích khác nhau và vấn đề đại diện duy nhất có thể được giải quyết khi các điểm cân bằng của các lợi ích khác nhau có thể đạt được (Krisnawati và cộng sự, 2014). Theo lý thuyết này, lợi ích của các cổ đông và các nhà quản lý của công ty sẽ không bao giờ gắn kết và trách nhiệm xã hội có thể là kết quả của những cuộc xung đột (Jensen và Meckling, 1976). Trong ý nghĩa này, các nhà quản lý có thể sử dụng các nguồn lực của công ty để tăng sự giàu có và tiện ích của riêng họ thay vì đầu tư vào các dự án tiềm năng có thể cải thiện hiệu quả tài chính. Do vậy, các hoạt động trách nhiệm xã hội có thể dẫn đến hiệu quả của công ty kém và sự giàu có của cổ đông có thể giảm. Lý thuyết này cho rằng các nguồn lực và các khoản đầu tư cho trách nhiệm xã hội phải được chi một cách hiệu quả để cải thiện hiệu quả công ty của nhưng nó lại không giúp ích cho lợi ích của nhà quản lý. Dựa trên quan điểm của lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan xuất hiện để giải quyết các vấn đề đại diện.
3. Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory)
Trái ngược với lý thuyết cổ đông có thể chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, lý thuyết đại diện cho thấy những tác động tích cực của trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính. Quan điểm các bên liên quan từ Freeman (1984) đề xuất ý tưởng rằng một công ty chỉ có thể tồn tại nếu nó có khả năng đáp ứng nhu cầu các bên liên quan – những người có thể ảnh hưởng đáng kể đến phúc lợi của công ty. Bởi vì các bên liên quan có thể đóng góp vào khả năng tạo ra của cải của một công ty (Post và cộng sự, 2002), để duy trì sự tăng trưởng, các công ty nên quan tâm đến lợi ích cho các bên liên quan (Van der La, 2009) và tính đến các quan điểm và các hoạt động của họ. Trong trường hợp này, các bên liên quan chính là nhóm, cá nhân có quyền lợi và mối quan hệ với các công ty, chẳng hạn như khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp v.v…
Xem thêm: Khái niệm trách nhiệm xã hội
Lập luận này có hai lý do. Đầu tiên, các bên liên quan cung cấp các nguồn lực như vốn, lao động và doanh thu (Sweeney, 2009). Nếu các công ty hành động vô trách nhiệm đối với nhân viên, khách hàng và xã hội, thì họ có nguy cơ mất đi những nguồn lực quan trọng này. Thứ hai, các bên liên quan vừa là người hưởng lợi tiềm năng vừa là người chịu rủi ro cao (Post và cộng sự, 2002). Họ thường xuyên phải đối diện với những rủi ro liên quan đến những hành vi vô trách nhiệm xã hội, chẳng hạn như các sản phẩm kém chất lượng, khai thác lao động và môi trường tự nhiên quá mức. Theo nguyên tắc phân phối công bằng (Sweeney, 2009), lợi nhuận công ty nên được chia đều giữa các thành viên chịu rủi ro, bao gồm cả các bên liên quan. Việc phân loại các bên liên quan thành quan trọng và thứ yếu của Metcalfe (1998) đã giúp phân định rõ khái niệm này. Các bên liên quan quan trọng là những người tham gia vào các hoạt động quan trọng của công ty, ví dụ, khách hàng, người lao động và cổ đông. Các bên liên quan thứ yếu là những người ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của một công ty, nhưng không được tham gia vào các hoạt động của công ty, ví dụ, các phương tiện truyền thông (Metcalfe, 1998). Sự phân biệt này làm rõ các yếu tố quyết định của các sáng kiến trách nhiệm xã hội.
Lý thuyết này được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu và phát triển hơn nữa trong nhiều cách khác nhau. Ví dụ, Blombäck và Wigren (2009) cho rằng công ty và các bên liên quan nên hợp tác với nhau để cùng hưởng tất cả các lợi ích có liên quan lẫn nhau. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu tăng lợi nhuận cho các cổ đông, các doanh nghiệp/công ty nên tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội để đáp ứng các bên liên quan phi tài chính, người có thể cung cấp sự hỗ trợ mạnh mẽ cho các họ. Hơn nữa, Clarkson (1995) cho rằng việc đem lại sự giàu có và giá trị cho các bên liên quan là cách duy nhất cho phép các công ty để thịnh vượng hơn. Jensen (2002) giới thiệu khái niệm tối đa hóa giá trị phù hợp với lý thuyết các bên liên quan và giá trị công ty trong thời gian dài. Trên thực tế, tối đa hóa giá trị cho thấy rằng giá trị thị trường dài hạn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của công ty trong khi lý thuyết các bên liên quan cố vấn cho các nhà quản lý để đáp ứng lợi ích và lợi ích của tất cả các bên liên quan. Jensen khẳng định rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa hóa giá trị công ty và chứng minh rằng tối đa hóa giá trị công ty không phải luôn luôn xung đột với một đối tác cụ thể. Cách tiếp cận này đã loại bỏ việc thực hành các mục tiêu khác nhau của công ty ở góc độ các bên liên quan truyền thống như tiền lương cao cho nhân viên, giá thấp cho khách hàng hoặc tổ chức từ thiện cho trẻ em mồ côi.
Theo Deegan và cộng sự (2000), lý thuyết các bên liên quan có thể được chia thành hai nhánh gồm nhánh thuộc về đạo đức và nhánh thuộc về quản lý. Nhánh đạo đức được dựa trên tiền đề “tất cả các bên liên quan có quyền được đối xử công bằng bởi một tổ chức, và các nhà quản lý nên quản lý tổ chức vì lợi ích của các bên liên quan”, nghĩa là tất cả các bên liên quan có quyền được cung cấp các thông tin về các hoạt động của công ty ảnh hưởng lên họ. Các bên liên quan cần biết tất cả các thông tin, bao gồm các thông tin về việc chất thải độc hại, ô nhiễm nước, hỗ trợ xã hội, thậm chí các thông tin không có liên quan trực tiếp đến họ. Nhánh quản lý dựa trên tranh luận là các tổ chức sẽ phản ứng với xã hội thông qua quyền lực các bên liên quan để tác động lên quản trị công ty/doanh nghiệp. Dựa trên quan điểm này, các tổ chức sẽ cung cấp nhiều thông tin nhắm tới sự quan tâm và kỳ vọng của những nhóm cụ thể hoặc các bên liên quan chính liên quan đến tổ chức. Kết quả là, việc công bố thông tin của doanh nghiệp/công ty sẽ được sử dụng như là chiến lược để duy trì sự ủng hộ của các bên liên quan chính (Deehan và Blomquist, 2006; Islam và Deegan, 2008).
Các nghiên cứu trước về CSR đã định nghĩa vai trò của các bên liên quan trong việc tác động lên quyết định tổ chức (McGuire và cộng sự, 1988). Theo Jensen (2001), các nhà quản lý nên đưa ra các nhận định về lợi ích của các bên liên quan trong một công ty/doanh nghiệp. Mặc dù, điều này có thể khó để các nhà quản lý xác định những sự đánh đổi cần thiết giữa lợi ích cạnh tranh của các bên liên quan khác nhau, các nhà quản lý được kỳ vọng làm cân bằng các lợi ích này bên trong lợi ích tốt nhất của tổ chức. Lý thuyết các bên liên quan giúp giải thích lợi ích cạnh tranh và ảnh hưởng của các bên liên quan lên quyết định quản lý. Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để đánh giá tác động lên hiệu quả tài chính, chiến lược quy hoạch và sự tập trung của các bên liên quan vào số lượng công bố trách nhiệm xã hội của các tổ chức (Roberts, 1992).
Theo lý thuyết các bên liên quan, các tổ chức nhắm đến việc cân bằng kỳ vọng của tất cả các nhóm bên liên quan thông qua hoạt động của họ. Các tổ chức cần chắc chắn mối quan hệ của họ với tất cả các bên liên quan. Các nhà quản lý nên xem xét và duy trì kỳ vọng của tất cả các nhóm bên liên quan khi họ đưa ra quyết định công bố trách nhiệm xã hội. Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng trong nghiên cứu này để giải thích cái gì đã thúc đẩy doanh nghiệp/công ty thực hành/công bố trách nhiệm xã hội. Việc phát triển khuôn khổ trách nhiệm xã hội sẽ sử dụng các bên liên quan quan trọng, những người mà có liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội của các công ty được điều tra.
Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để giải thích các mô hình trách nhiệm xã hội; các động lực của công ty liên quan đến việc thực hành trách nhiệm xã hội. Vì vậy, nghiên cứu này giả định các yếu tố trách nhiệm xã hội chính bao gồm trách nhiệm với người lao động, với sản phẩm, với cộng đồng và với môi trường đã ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của công ty.
4. Lý thuyết tính chính đáng (Legitimacy theory)
Lý thuyết tính chính đáng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về xã hội và kế toán để giải thích tại sao các công ty/doanh nghiệp cần phải công bố thông tin về xã hội và môi trường. Suchman (1995) đã định nghĩa lý thuyết tính chính đáng “hoạt động của một thực thể được kỳ vọng là thích hợp, hoặc phù hợp với một số hệ thống kiến trúc xã hội về các chuẩn mực, giá trị, niềm tin và khái niệm”.
Lý thuyết tính chính đáng dựa trên quan điểm là quyền và trách nhiệm của tổ chức phải đến từ xã hội. Các tổ chức kinh doanh phải hoạt động trong ranh giới của xã hội để đáp ứng các kỳ vọng của xã hội, bao gồm việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ tốt hơn cho xã hội. Bởi vì tổ chức là một phần của hệ thống xã hội rộng lớn, các tổ chức cần phải hoạt động trong hệ thống xã hội, mà không có bất kỳ tác động tiêu cực nào đến xã hội (Deegan, 2002). Điều này có thể làm cho tổ chức đạt được các mục tiêu và lợi nhuận ổn định. Suchman (1995) đã định nghĩa ba hình thức của tính chính đáng: thực dụng (dựa vào đối tượng tư lợi), bình thường (dựa vào tính chất quy phạm), và nhận thức (dựa trên tính toàn diện và sự trợ cấp) nó được sử dụng trong các thuật ngữ tham nhũng và sự ủng hộ của xã hội. Ba hình thức này được sử dụng để giải thích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với lý thuyết tính chính đáng. Guthrie và Parker (1989), O’Donovan (2002) đã tranh luận, lý thuyết tính chính đáng được dựa trên quan điểm đó là các tổ chức được quản lý bởi xã hội thông qua một hợp đồng xã hội mà các nhà quản lý đã thỏa thuận để có được, dựa trên một số yêu cầu xã hội, bù đắp lại cho chính các mục tiêu của tổ chức. Các tổ chức cần phải hành xử và công bố đầy đủ các thông tin cho xã hội để xã hội đánh giá đó có phải là một công dân tốt. Các công ty được công nhận là một “công dân doanh nghiệp tốt” khi hoạt động theo các cam kết với xã hội.
Vì mục tiêu “hoạt động như một công dân doanh nghiệp tốt”, nhiều tổ chức có thể cần phải thay đổi quy trình tổ chức của họ. Newson và Deegan (2002) đã tranh luận, lý thuyết tính chính đáng được cho là bị ảnh hưởng bởi việc công bố thông tin chứ không phải bởi những thay đổi trong hoạt động kinh doanh. Khi các kỳ vọng của xã hội thay đổi, các tổ chức sẽ được yêu cầu chứng minh sự thay đổi trong các chiến lược hoạt động của mình cho phù hợp. O’Donovan (2002) tranh luận, các tổ chức cố gắng thay đổi các kỳ vọng xã hội, nhận thức và giá trị thông qua một số phương pháp tiếp cận như là một phần của quy trình tính chính đáng.
Lindblom (1994), Gray và cộng sự (1995a) đã xác định bốn chiến lược hay phương pháp tiếp cận về cách tổ chức đạt được tính chính đáng. Một là, một tổ chức có thể cần phải giáo dục và thông tin cho công chúng liên quan về sự thay đổi trong thành quả và hành động của tổ chức. Phương pháp này được sử dụng để xác định khoảng trống của tính chính đáng giữa hành động và sự thất bại thực tế của tổ chức. Hai là, để làm thay đổi nhận thức của xã hội mà không làm thay đổi hành vi thực tế của tổ chức. Phương pháp này được sử dụng khi khoảng trống tính chính đáng đã tăng giữa tổ chức và xã hội. Ba là, các tổ chức có thể cần phải thu hút sự quan tâm của công chúng tránh xa khỏi các vấn đề hiện tại và các vấn đề liên quan khác. Phương pháp này có thể làm chệch hướng các kỳ vọng của công chúng từ một tình huống hiện tại đã có. Bốn là, một tổ chức có thể cần phải thay đổi kỳ vọng của công chúng khi xã hội có kỳ vọng không đúng về hiệu quả của mình.
Như vậy, lý thuyết tính chính đáng có thể được sử dụng như là động lực đối với các công ty để các công ty công bố các hoạt động xã hội và môi trường của họ. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tập trung vào quy trình của tính chính đáng, mà tập trung vào việc áp dụng tính chính đáng vào lý thuyết trách nhiệm xã hội.