Giáo dụcKinh tếTin chuyên ngành

Khái niệm về động lực lao động

Nhiều học giả đã cố gắng xác định động lực và đó là lĩnh vực được nghiên cứu kỹ lưỡng có nguồn gốc từ nhiều ngành học như tâm lý học, xã hội học, giáo dục, khoa học chính trị, và kinh tế học.

Trong bối cảnh quản lý, động lực có vai trò rất quan trọng để các tổ chức hoạt động; không có động lực của nhân viên sẽ không nỗ lực hết mình và hiệu suất của tổ chức sẽ kém hiệu quả. Trong tổ chức, người quản lý và người lao động đều phải biết đến các yếu tố làm nền tảng để đạt được các mục tiêu kinh doanh, đó là: tăng hiệu quả kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng chất lượng sản phẩm,

Có thể thấy động lực lao động không chỉ được sử dụng để mô tả hành vi của con người, mà nó còn được sử dụng để giải thích nguyên nhân hành động của con người

Trong suốt những năm qua, động lực đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Cụ thể như:

Lindner (1998) đã định nghĩa động lực là “quá trình tâm lý đưa ra mục đích và hướng hành vi, khuynh hướng hành xử theo cách có chủ đích để đạt được những nhu cầu cụ thể chưa được đáp ứng, một nhu cầu chưa được thoả mãn và ý chí đạt được” [64].

Kelly. P(2015) cho rằng “động lực là bất cứ điều gì ảnh hưởng đến lựa chọn của chúng ta và tạo ra định hướng, cường độ và sự bền bỉ trong hành vi của chúng ta” [50]. Denhardt và cộng sự (2008) cũng định nghĩa “động lực là một trạng thái bên trong khiến mọi người có hành vi theo một cách cụ thể để hoàn thành các mục tiêu và mục đích cụ thể”. Ông nói thêm rằng động lực không giống như sự hài lòng. Sự hài lòng là định hướng trong quá khứ, trong khi động lực là định hướng tương lai. Động lực cũng có thể được định nghĩa là quá trình bên trong dẫn đến hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu. Quá trình con người trải qua để thỏa mãn nhu cầu của họ là nhu cầu – động lực – hành vi – sự hài lòng hoặc không hài lòng [55].

Theo Ryan và Deci (2000, p. 54) một người được thúc đẩy nếu họ cảm thấy tràn đầy sinh lực và được kích hoạt một cái gì đó, trong khi một cá nhân không có động lực sẽ cảm thấy thiếu cảm hứng và sự thúc đẩy [92].30

Định nghĩa đã dẫn chúng ta đến việc quan sát động cơ như một hiện tượng riêng lẻ. Như mỗi nhân viên đều khác biệt và duy nhất, về tuổi tác, trình độ học vấn, tin tưởng, v.v. các mục tiêu, nhu cầu và kỳ vọng khác nhau. Tất cả điều này phải được tính đến trong quá trình tạo động lực cho nhân viên. Vì vậy, các nhà quản lý có một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Các yếu tố đó thúc đẩy bản thân người quản lý không nhất thiết phải thúc đẩy một nhân viên, và một số yếu tố thúc đẩy một nhân viên, có thể không thúc đẩy một nhân viên khác. Vì vậy, điều quan trọng là nhìn vào mỗi nhân viên như một cá nhân. Các khái niệm trên tuy khác nhau nhưng đều thể hiện bản chất của động lực, bao gồm:

– động lực lao động luôn liên quan đến một công việc, tổ chức, môi trường làm việc cụ thể, không có động cơ chung chung nào mà không liên quan đến một công việc cụ thể.

– Mọi người có động lực khi họ mong đợi quá trình làm việc có khả năng dẫn đến việc đạt được các mục tiêu hoặc phần thưởng có giá trị đáp ứng nhu cầu cụ thể của họ.

Amabile (1993, tr.185) nhận thấy rằng những nhân viên không có động lực có thể làm ít công việc hơn, làm công việc kém chất lượng, trốn tránh công việc và bỏ việc nếu họ có cơ hội … Mặt khác, nhân viên có động lực luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ, có sự sáng tạo trong quá trình làm việc và luôn hướng đến mục tiêu tạo ra công việc có chất lượng. Vì vậy, nhà quản lý cần có kỹ năng khuyến khích tính tự giác và tính tự phát của nhân viên để tạo động lực làm việc nhằm đạt được hiệu quả tốt và vượt mong đợi [35].

Động lực lao động chỉ là nguồn gốc chứ không phải là yếu tố quyết định làm cho năng suất lao động của người lao động tăng lên. Mà điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như trình độ chuyên môn, thâm niên, kinh nghiệm của người lao động hay máy móc, trang thiết bị hỗ trợ trong quá trình lao động,

Theo Vũ Thị Uyên (2008) cho rằng “Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của mỗi cá nhân nhằm phát huy mọi nỗ lực để hướng bản thân đạt được mục tiêu của cá nhân và mục tiêu của tổ chức”[29]. Dựa trên ý nghĩa của động lực từ các học giả khác nhau, NCS đưa ra quan điểm của mình về động lực như sau: “Động lực lao động là trạng thái cảm xúc bên trong của người lao động nhằm định hướng hành vi thực hiện các hành động có chủ đích để đạt được mục tiêu mà mình đề ra và phù hợp với mục tiêu của tổ chức”.

Nguồn: Luận án Tiến sĩ “Tạo động lực lao động cho điều dưỡng viên trong các bệnh viện công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội”

Ngọc Thi

Tôi luôn muốn góp một phần nhỏ những kinh nghiệm của mình giúp các anh chị hoàn thành tốt luận án tiến sĩ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *