Lý thuyết người đại diện
Lý thuyết người đại diện
Jensen và Meckling (1976) [75] trong tác phẩm “Lý thuyết về công ty: Hành vi nhà quản trị, chi phí người đại diện và cấu trúc sở hữu” đã giới thiệu các quan điểm của mình về lý thuyết người đại diện. Đây là một trong những tác phẩm được trích dẫn nhiều nhất trong gần 3 thập kỷ qua của giới học giả kinh tế, tài chính khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chi phí người đại diện (agency cost). Lý thuyết này đã được nghiên cứu từ trước và có cơ sở từ tâm lý học đó là: con người vốn có khuynh hướng cá nhân (individualistic), cơ hội (opportunistic), và tư lợi (self-interest); tuy nhiên vấn đề ở đây là làm sao để các cá nhân dung hòa lợi ích để cùng có lợi và phát triển. Nghiên cứu này của Jensen và Meckling [64] thường được trích dẫn ở các nội dung chính sau đây:
Một là, chủ thể (principal) hay chủ sở hữu vốn (shareholders) và người đại diện (agent) hay nhà quản trị (managers) luôn có sự đối nghịch về lợi ích. Người sở hữu vốn quan tâm đến giá trị công ty, giá cổ phiếu (cũng là lợi ích của chính họ). Trong khi đó, nhà quản trị về cơ bản không quan tâm nhiều đến lợi ích cổ đông mà thường chỉ quan tâm đến lợi ích của mình là chính (lương, thưởng, phụ cấp, nguồn thu khác dựa trên vị trí công tác của mình).
Hai là, việc không đồng nhất lợi ích giữa chủ sở hữu vốn và người đại diện hay nhà quản trị làm phát sinh một loạt chi phí. “Agency Cost” (tạm dịch là chi phí người đại diện, hay còn gọi là chi phí Giám đốc) bằng 0 (không) khi chủ sở hữu đồng thời là Giám đốc công ty, tức là, Giám đốc sở hữu toàn bộ vốn của công ty (principal và agent là một).
Ba là, chi phí Giám đốc càng lớn khi Giám đốc sở hữu ít hoặc không sở hữu cổ phiếu công ty.
Trên cơ sở đó, các nhà kinh tế tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ người đại diện, cũng như về các loại chi phí Giám đốc. Những nghiên cứu tiếp theo cho thấy một số kết quả như sau:
– Giám đốc sẵn sàng lựa chọn các dự án sinh lợi thấp cho công ty nếu lợi ích của mình được đảm bảo và khó có thể chứng minh được thiệt thòi về phía công ty.
– Cổ đông có khuynh hướng chấp nhận rủi ro (risk-preference) cao hơn nhiều so với Giám đốc vì cổ đông có thể đa dạng hóa đầu tư vào nhiều công ty, còn Giám đốc làm thuê thì thu nhập chủ yếu từ công ty. Vì vậy, Giám đốc có khuynh hướng né tránh rủi ro (risk-averse) trong việc lựa chọn chiến lược kinh doanh cho công ty, vì khi chấp nhận rủi ro, nếu sinh lợi cao thì không được hưởng như cổ đông. Ngược lại, nếu không thành công thì nguy cơ mất việc cao. Từ đó, Giám đốc sẵn sàng bỏ qua các cơ hội làm lợi cho cổ đông.
– Giám đốc sẵn sàng gây dựng tên tuổi cá nhân mình bằng cách đầu tư vào các dự án đồ sộ, sinh lợi thấp nhưng sử dụng nhiều kinh phí. Giám đốc ưa thích xây nhà cửa, mua phương tiện đi lại nhiều tiền để chứng minh vị thế của mình và hưởng lợi trên chi phí mà cổ đông phải chịu.
– Giám đốc có khuynh hướng đầu tư ngắn hạn, quan tâm tới công việc, vị trí của mình hơn là mạo hiểm để mang lại lợi ích dài hạn cho công ty. Giám đốc có khuynh hướng đầu tư mạnh cho quảng cáo để gián tiếp quảng bá mình và nhận hoa hồng, nhưng có khuynh hướng ngược lại đối với chi phí nghiên cứu phát triển (R&D) vì chi lớn có thể làm giảm lương, thưởng, còn cái lợi về dài hạn của R&D thì Giám đốc có thể không được thụ hưởng.
– Giám đốc có khuynh hướng không thích vay nợ vì sẽ bị kiểm soát bởi các bên cho vay trong việc sử dụng vốn của mình.
– Chi phí Giám đốc liên quan trực tiếp đến mức độ phân tán hay tập trung của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu phân tán khiến các cổ đông có thể thiếu quyền hạn trong việc giám sát Giám đốc, dẫn đến tình trạng cổ đông này cho rằng cổ đông kia đã giám sát (free-rider).
Các nghiên cứu cho thấy Giám đốc thường ít có khuynh hướng trả cổ tức (devidend payout) vì muốn lưu giữ ngân quỹ cao để làm vùng đệm cho những chi tiêu, đồng thời làm giảm khả năng công ty phải đi vay khi đó Giám đốc sẽ bị đánh giá về hiệu quả, năng lực qua hoạt động sử dụng vốn.
Theo lý thuyết người đại diện, chi phí Giám đốc chỉ bằng không khi chủ sở hữu vốn cũng chính là Giám đốc công ty. Những loại hình công ty cổ phần là rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường và các Giám đốc thường được thuê từ bên ngoài, nên các chi phí này là không thể tránh khỏi khi Giám đốc và cổ đông luôn không đồng nhất về lợi ích như đã đề cập.
Với mục đích làm cho lợi ích và mục đích của chủ sở hữu vốn và Giám đốc làm thuê trở nên đồng nhất, một số biện pháp mà các công ty thường áp dụng để làm giảm chi phí Giám đốc đó là:
(i) Biện pháp khuyến khích (incentive mechanisms). Trả lương phù hợp cho Giám đốc, tạo điều kiện để Giám đốc trở thành cổ đông của công ty bằng việc thưởng cổ phiếu, quyền chọn mua cổ phiếu (stock options) để việc tăng giảm giá trị công ty ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi Giám đốc, từ đó buộc họ phải hành xử theo lợi ích của các cổ đông.
(ii) Thuê thành viên HĐQT độc lập bên ngoài (ousider director) để giám sát các quyết định của Giám đốc nhằm làm giảm chi phí Giám đốc tốt hơn các thành viên bên trong.
(iii) Đề cao năng lực của Giám đốc trong sử dụng lao động vì Giám đốc là người có khả năng và quan tâm đến việc đánh giá thị trường lao động, có năng lực quan tâm nhiều hơn đến uy tín của mình, đồng thời có năng lực có khuynh hướng hành xử vì lợi ích của cổ đông do có khả năng được tăng thu nhập vì sự thành công của công ty.
(iv) Tăng cường giám sát Giám đốc thông qua các cổ đông lớn ngoài công ty (block holder) do các cổ đông lớn ngoài công ty có tác dụng giám sát công việc của Giám đốc tốt hơn nhiều cổ đông nhỏ phân tán.
(v) Gắn công nợ với việc chi trả cổ tức: Chủ nợ có tác dụng giám sát việc chi tiêu thiếu hiệu quả của Giám đốc. Chi trả cổ tức làm giảm ngân quỹ để khi công ty có cơ hội tăng trưởng, buộc phải huy động bên ngoài thay vì sử dụng lợi nhuận giữ lại. Việc này sẽ tạo điều kiện để Giám đốc được giám sát chặt chẽ hơn.
Cùng với nghiên cứu của Jensen & Meckling (1976) [64], một nghiên cứu khác về chi phí đại diện và cấu trúc sở hữu sau đó đã được thực hiện bởi Fama & Jensen (1983) [63]. Nghiên cứu này đưa ra kết luận rằng trong một công ty luôn có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và kiểm soát. Nói cách khác, người sở hữu thực sự của công ty không tham gia vào việc quản lý công ty và chi phí đại diện sẽ xuất hiện vì tình trạng bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý và các cổ đông. Nhà quản lý có nhiều thông tin về tình hình công ty và họ sẽ dùng quyền quản lý để trục lợi cho bản thân.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu thực nghiệm khác tìm hiểu về ảnh hưởng của mức độ sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức đến chi phí đại diện. Chẳng hạn, các nghiên cứu của Brickley, Lease & Smith (1988) [46] hay Agrawal & Mandelker (1990) [32] đều cho rằng do đặc tính riêng có so với các cổ đông là cá nhân, các nhà đầu tư tổ chức hoàn toàn có đủ khả năng và động lực để đóng vai trò như những kiểm soát viên trong công ty, do đó có thể làm giảm chi phí đại diện. Mak & Li (2001) [87] cho rằng Chính phủ thường có xu hướng kém chủ động trong việc kiểm soát khoản đầu tư của mình, đồng thời do việc huy động vốn dễ dàng hơn, dẫn đến hiện tượng các công ty có vốn đầu tư Nhà nước có cơ chế kiểm soát công ty kém hơn. Nói cách khác, các công ty có vốn đầu tư Nhà nước thường sẽ làm tăng chi phí đại diện. Ang, Cole& Lin (2000) [35] đã thực hiện nghiên cứu trên những công ty chưa niêm yết tại Mỹ và kết luận rằng chi phí đại diện tăng lên đáng kể ở những công ty được quản lý bởi một
Giám đốc không phải là cổ đông của công ty. Ngoài ra, chi phí đại diện và số lượng cổ phần của nhà quản lý công ty có mối quan hệ nghịch biến nhau. Chi phí đại diện tăng lên cùng với số lượng những cổ đông không nằm trong bộ phận quản lý công ty. Tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài cũng có những ảnh hưởng nhất định đến chi phí đại diện của công ty. Xu, Zhu và Lin (2005) [124] chỉ ra rằng đối với những công ty ở Trung Quốc, tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài càng cao thì công ty được kiểm soát tốt hơn, dẫn đến hiệu quả công ty cao hơn và giảm bớt chi phí đại diện.
Như vậy có thể thấy rằng có sự tồn tại mối tương quan giữa chi phí đại diện với cấu trúc sở hữu trong công ty ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong đó, nổi bật lên vai trò giải thích của tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà quản lý công ty, cũng như vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ trong việc kiểm soát hoạt động của công ty.
Các nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ đại diện là gì?
Nêu ví dụ về vấn đề đại diện ở Việt Nam và trên thế giới