Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II của Vietcombank
Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II của Vietcombank
1. Nguyên nhân thuộc về nội dung của Hiệp ước Basel II
Nội dung Basel II quá phức tạp
Một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc tiếp cận các quy tắc trong hiệp ước Basel (kể cả phiên bản I và II) chính sự khác biệt về ngôn ngữ. Ngôn ngữ được thể hiện trong hiệp ước Basel là tiếng Anh, hoàn toàn chưa có một tài liệu nghiên cứu hoặc dịch thuật chính thức nào về hiệp ước Basel bằng tiếng Việt. Vì vậy, cho dù rất nhiều chuyên gia quản lý ngân hàng muốn tiếp cận nhưng cũng rất khó khăn. Mỗi văn bản ban hành từ Ủy ban Basel kể cả là văn bản chính thức lẫn những văn bản bổ sung hướng dẫn thi hành đều có độ dài từ 400 đến hơn 500 trang giấy, những thuật ngữ được sử dụng cũng thật sự không dễ hiểu, là những từ mới và từ khó. Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các văn bản của Basel với nhiều công thức tính toán phức tạp, chưa gần gũi với tình hình thực tế trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam cùng là lý do để các chuyên gia chưa dành nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên cứu.
Mặt khác, một trong những khó khăn đối với việc vận dụng các phương pháp của Basel II vào hệ thống ngân hàng Việt Nam chính là độ phức tạp của mỗi phương pháp. Sự phức tạp này thể hiện ở cả trong cách tính toán và vận dụng lẫn trong việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý khách hàng.
Đối với phương pháp được coi là đơn giản và dễ áp dụng nhất là phương pháp chuẩn thì mỗi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng cũng phải được lưu trữ thông tin đầy đủ nhằm phục vụ cho việc đánh giá, chấm điểm khách hàng đó. Như vậy sẽ có rất nhiều hệ số rủi ro được áp dụng cho mỗi khách hàng với từng loại giao dịch khác nhau. Thực tế, mỗi ngân hàng có đến vài trăm ngàn khách hàng, mỗi khách hàng lại có vài trăm giao dịch các loại, vấn đề tính toán nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động của ngân hàng thực sự trở thành một bài toán không đơn giản. Đối với hai phương pháp còn lại là IRB cơ bản và IRB nâng cao thì hai phương pháp này là quá phức tạp. Các công thức tính toán hệ số rủi ro là những công thức dựa trên toán học phức tạp bao gồm toán thống kê, xác suất và kinh tế lượng.
Chi phí thực hiện ứng dụng Basel II quá lớn
Một trong những khó khăn ảnh hưởng đến việc quyết định áp dụng Basel II vào hệ thống giám sát và quản trị rủi ro của Vietcombank đó chính là chi phí vận hành theo toàn bộ chuẩn mực của Basel II quá lớn. Đối với các ngân hàng quốc tế lớn, họ đã áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro gần tương thích với Basel II và có thể tiết kiệm chi phí thông qua quy mô hoạt động. Đối với các nước đang phát triển, nhiều ngân hàng của các nước mới nổi sẽ gặp khó khăn, vì việc chuyển sang Basel II là rất tốn kém, các ngân hàng cỡ nhỏ khó có thể chịu được chi phí cố định liên quan đến việc nâng cấp ngân hàng. Đây là một thách thức lớn đối với hệ thống tài chính Việt Nam. Theo ước tính, các NHTM cỡ nhỏ phải tốn xấp xỉ 10 triệu USD, tương đương với 160 tỷ đồng Việt Nam, khoảng 15% vốn điều lệ của các NHTM cổ phần. Trong khi đó, nếu là ngân hàng cỡ lớn thì chi phí vận hành hệ thống Basel này có thể lên đến 200 triệu USD, tương đương với 3.200 tỷ đồng Việt Nam, cao hơn mức vốn pháp định của các NHTM Nhà nước theo nghị định 141 của Chính phủ.
Yêu cầu của Basel II về vốn khá cao
Hiệp ước Basel II nhằm điều chỉnh hoạt động của các tập đoàn ngân hàng hoạt động trên phạm vi nhiều quốc gia, vì vậy yêu cầu an toàn vốn là một trong những mục tiêu đặt ra hàng đầu đối với những ngân hàng này. Vốn này nhằm giảm thiểu đến mức tối đa khả năng xảy ra vỡ nợ đối với các ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trong Basel II vẫn giữ mức 8% nhưng trên thực tế, các ngân hàng phải duy trì mức vốn cao hơn so với mức quy định ở Basle I bởi các ngân hàng phải bổ sung thêm vốn để dự phòng các rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Điều này sẽ cực kỳ bất lợi cho Vietcombank cũng như các NHTM Việt Nam vì rủi ro hoạt động cũng như rủi ro thị trường thấp hơn các ngân hàng quốc tế lớn bởi phạm vi hoạt động của các ngân hàng tương đối hẹp.
2. Nguyên nhân trong nội tại Vietcombank
* Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II
Theo quy định trong hiệp ước Basel II, các NHTM được lựa chọn một trong ba phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng và tính toán tỷ lệ an toàn vốn theo từng phương pháp với sự đồng ý của cơ quan giám sát và phù hợp với năng lực hiện tại của từng ngân hàng. Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn về việc thực hiện một trong ba phương pháp này cho các NHTM hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
* Vietcombank chưa đáp ứng điều kiện của Basel II
Để ứng dụng được các phương pháp Basel II như phương pháp IRB cơ bản thì Vietcombank phải ước tính được xác suất vỡ nợ (PD), thiệt hại do vỡ nợ (LGD) dựa trên các đặc điểm về điều kiện tài chính, tài sản đảm bảo, năng lực hoạt động. Còn đối với phương pháp IRB nâng cao thì ngoài hai yếu tố này ra, Vietcombank còn cần ước tính được giá trị đáo hạn hiệu dụng M, và giá trị hoạt động khi vỡ nợ EAD. Và những thông tin như vậy chỉ có thể tận dụng cùng với dữ liệu quá khứ để ước tính yêu cầu vốn cho các khoản vay đặc biệt và toàn bộ danh mục cho vay của ngân hàng. Mặc dù Vietcombank đã có hệ thống quản trị rủi ro tín dụng riêng cho mình và nếu cần thiết thì điều chỉnh cho phù hợp với phương pháp nâng cao nhưng để phát triển và sử dụng được một hệ thống quản trị rủi ro hiện đại thì có rất ít ngân hàng lớn trên thế giới đủ khả năng làm được điều này, đó là một bài toán khó cả về chi phí thực hiện lẫn hệ thống thông tin hỗ trợ và năng lực quản trị của Vietcombank.
* Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu
Theo các điều khoản và điều kiện về việc ứng dụng phương pháp IRB, Ủy ban Basel yêu cầu sự duy trì và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về các khách hàng vay của mình theo đặc điểm, các xếp hạng, quy trình quản lý, hạng mức tín nhiệm… đạt được những tiêu chuẩn khắt khe này là một việc làm hoàn toàn không dễ với Vietcombank và các NHTM Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt là khi muốn sử dụng được phương pháp IRB thì Vietcombank phải duy trì thông tin về xếp hạng tín nhiệm trong lịch sử của khách hàng bao gồm điểm số, ngày xếp hạng phương pháp xếp hạng và các thông tin quan trọng được sử dụng cho việc xếp hạng, người chịu trách nhiệm xếp hạng. Việc xác định người vay và các công cụ đã vỡ nợ, tần suất xuất hiện và chu kỳ xuất hiện của những kiểu vỡ nợ giống nhau cũng cần được duy trì trong hệ thống cơ sở dữ liệu của ngân hàng.
* Nguồn nhân lực
Một trong những khó khăn khi xem xét việc ứng dụng hiệp ước Basel II vào công tác quản trị rủi ro tại Vietcombank đó chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề chung không chỉ đối với Vietcombank mà còn đối với tất cả các NHTM Việt Nam và kể cả đối với cơ quan giám sát NHTM như Ngân hàng Nhà nước. Thông qua tìm hiểu những chuẩn mực Basel II, có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng được các chuẩn mực này đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng và nhân viên phụ trách phải có một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn kiến thức toán học và kiến thức quản trị. Ngoài ra các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ năng không thể thiếu. Đây thực sự là những yêu cầu cao đối với các chuyên gia ngân hàng Việt Nam tại thời điểm này.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang cạnh tranh nhau rất lớn để có thể giữ chân những chuyên gia giỏi, am hiểu trong lĩnh vực ngân hàng thông qua việc ưu đãi về mức lương, thưởng và các hình thức khác như thưởng cổ phiếu, trang bị nhà ở và phương tiện đi lại… Nhưng với tốc độ phát triển mạnh mẽ như hiện nay của hệ thống ngân hàng thì số lượng chuyên gia giỏi vẫn chưa đủ và cần một sự đào tạo và bổ sung rất lớn. Ngoài ra, cũng có nhiều chuyên gia giỏi đang đảm nhiệm những vị trí cấp cao trong các NHTM, nhưng do không có điều kiện hoặc không đủ thời gian để được đào tạo và tiếp cận những kiến thức mới này nên cũng chưa có khả năng vận dụng vào công việc thực tế. Hơn nữa, chi phí cho những khóa học với các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng thông thường là rất lớn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của những người được đi học.
* Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp
Không giống như cách đo lường theo kiểu “một cho tất cả” (“one – size – fits – all”) của chuẩn mực vốn trong hiệp ước Basle I, hiệp ước Basel II dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác định được hệ số rủi ro cho từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác nhau, mà một trong những yếu tố này chính là kết quả xếp hạng tín nhiệm đáng tin cậy của một tổ chức độc lập.
Hiện nay thực tế là mỗi NHTM Việt Nam đều đang từng bước xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên việc xếp hạng này chủ yếu nhằm phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít được chia sẻ thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài, từ đó dẫn đến mạnh ngân hàng nào thì ngân hàng đó tự lo và kết quả là đôi khi sự đánh giá còn mang nặng về yếu tố chủ quan, cảm giác hơn là khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do là thông tin không đầy đủ.
Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức hoạt dộng trong lãnh vực xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn chưa được quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm: (i) Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà Nước (CIC) vừa có chức năng thu thập và cung cấp thông tin tín dụng cho Ngân hàng nhà nước, các TCTD – đặc biệt là các NHTM và tổ chức cá nhân khác, lại vừa thực hiện việc xếp loại tín dụng doanh nghiệp(theo Quyết định số 473/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004). (ii) Công ty thông tin và xếp hạng doanh nghiệp (C&R) – mới thành lập năm 2004, được tách ra từ công ty Giải pháp Việt Nam, là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam cung cấp các loại báo cáo tín nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức lớn trên thế giới như Standard & Poor’s, Moody’s, Equifax, Jcr… (iii)Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRVC) thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC, được ra đời vào ngày 4/6/2005. Các đơn vị này vẫn chưa phải là tổ chức đánh giá tín nhiệm theo đúng nghĩa bởi lẽ hoạt động chính vẫn chỉ là cung cấp các thông tin có liên quan tới các doanh nghiệp mà chưa thực hiện nghiệp vụ đánh giá tín nhiệm theo chuẩn mực quốc tế. Trong số 3 đơn vị nói trên, CRVC hiện đã phải tạm ngừng hoạt động do chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các cấp chức năng và của thị trường.
Điều có thể nhận thấy rằng những tổ chức xếp hạng tín nhiệm này đều còn rất non trẻ đối với một lĩnh vực cũng còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam, như vậy để xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được chấp thuận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm thời sử dụng từ các tổ chức khác nhau chứ chưa thể xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam, mà sự vay mượn này cũng sẽ ít nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng vào tính toán đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo đánh giá chung, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn và thách thức khi dự thảo Hiệp ước Basel II được chính thức thông qua. Basel II quy định tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu gắn chặt chẽ với mức độ rủi ro của tài sản ngân hàng. Bản thân mức độ rủi ro của tài sản còn tính đến nhiều yếu tố như độ tín nhiệm của khách hàng, thời hạn khoản vay, độ tập trung của các khoản vay vào một nhóm khách hàng nhất định. Tuy nhiên, phương pháp chuẩn hóa được đưa ra trong Hiệp ước lại quá nhấn mạnh vai trò của cơ quan xếp hạng trong việc phân loại rủi ro tài sản. Trong khi đó, kinh nghiệm cho thấy, các công ty lớn trong ngành xếp hạng độ tín nhiệm có tương đối lớn số vụ xếp hạng không chính xác.
Một vấn đề nữa là việc hầu hết các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển chưa được xếp hạng có thể dẫn tới tình trạng các công ty xếp hạng sẽ tiến hành chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp mà không xuất phát từ yêu cầu của doanh nghiệp. Khi đó, điểm xếp hạng sẽ do những công ty này cung cấp sẽ không chính xác do thông tin về doanh nghiệp chưa đầy đủ và như vậy sẽ bất lợi cho doanh nghiệp.
Hiện nay mới chỉ có một số NHTM cổ phần quy mô lớn mới chú trọng vào việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó có Vietcombank. Một điều dễ nhận thấy trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng chính là nhằm phục vụ nhiều cho việc thẩm định ra quyết định cho vay hơn là phục vụ cho công tác quản trị rủi ro của ngân hàng trong khi đó nếu so sánh với hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ của các ngân hàng liên doanh đang hoạt động tại Việt Nam như ngân hàng Việt Thái (Vinasiam) thì họ sẽ gắn liền trực tiếp giữa kết quả đánh giá với dự phòng rủi ro và tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu.
Ở các nước có thị trường tài chính phát triển như Mỹ, Anh, Australia, việc thuê các tổ chức định mức tín nhiệm cung cấp dịch vụ được các doanh nghiệp thực hiện định kỳ như việc thuê kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam do chi phí quá cao, nên hiện mới chỉ có BIDV thực hiện thuê tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế Quốc tế Moody’s để đánh giá các hệ số rủi ro trong hoạt động ngân hàng và để minh bạch hóa thông tin. Sau BIDV, là Techombank cũng thuê Moody’s xếp hạng tín nhiệm, còn Vietcombank thì không.
* Hạn chế về năng lực giám sát
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tuy chỉ mới gửi “tín hiệu” từ xa tới thị trường tài chính Việt Nam nhưng đang đặt ra vấn đề rất thời sự, đó là năng lực giám sát của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giám sát tài chính ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống mà đang được tiến hành riêng rẽ cho từng lĩnh vực. Ngay cả việc giám sát riêng rẽ đó cũng nặng về giám sát tuân thủ hơn là giám sát rủi ro. Trong khi đó, nói đến hệ thống tài chính là nói đến những rủi ro có tính hệ thống, là những rủi ro trong từng lĩnh vực và rủi ro chéo từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Và nếu hiểu theo nghĩa đó có thể thấy, hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam còn vô cùng sơ khai. Đó là về tổ chức.
Về kỹ thuật, cho đến giờ hoàn toàn chưa có một quy định chung nào về giám sát hệ thống tài chính tổng quát. Mặc dù các chỉ tiêu giám sát từ xa theo CAMELS đã bắt đầu được Thanh tra ngân hàng thuộc Ngân hàng trung ương áp dụng nhưng đó mới chỉ là những chỉ tiêu mang tính định lượng và chỉ áp dụng cho các NHTM cổ phần. Những giá trị chỉ dẫn của chỉ tiêu định lượng thường rất hạn chế bởi những chỉ tiêu này dựa trên chuẩn kế toán Việt Nam và phải căn cứ vào kết quả thống kê, mà kết quả thống kê thì phụ thuộc vào thời gian: cuối quý, cuối năm… Trong khi đó, rủi ro thì đến từng ngày. Vì thế, ở Việt Nam đang rất cần một hệ thống chỉ tiêu định tính. Ở các nước, ngoài hệ thống giám sát tài chính công quyền còn có hệ thống định giá tài chính, xếp hạng tài chính của các tập đoàn xếp hạng tài chính như Standard & Poor’s, Fitch Ratings…cũng đưa ra những chỉ tiêu gần với hệ thống chỉ tiêu giám sát chung. Như vậy, thị trường có đầy đủ các thông tin, kể cả thông tin về giám sát chung của Chính phủ cũng như những thông tin về định giá hoặc thông tin về xếp hạng tín nhiệm của các công ty xếp hạng độc lập và nó tạo ra một hệ thống giám sát tài chính tương đối toàn diện.
Về công nghệ, thực ra giám sát tài chính rất cần có công nghệ hiện đại, ít nhất là phải có hệ thống thông tin quản lý (MIS) để có thể cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát nhanh chóng và nhạy bén. Điều đó ở Việt Nam chưa làm được. Ngân hàng Trung ương đang xây dựng hệ thống MIS hiện đại có tổng trị giá 70 triệu USD nhưng phải đến năm 2012 trở đi thì mới có thể ứng dụng được. Hy vọng đến thời điểm đó sẽ có hệ thống phần cứng, hệ thống data base để tiến hành được các phân tích tài chính vĩ mô, cập nhật thông tin để phân tích, xác định rủi ro và đưa ra những cảnh báo cho khu vực tài chính một cách nhanh chóng và chính xác.
Hiệp ước Basel II giao cho cơ quan quản lý ngân hàng được quyền xem xét khả năng ứng dụng từng loại hệ thống đánh giá rủi để phân loại rủi ro tài sản của TCTD. Trong thực tế, nếu như NHTW – cơ quan quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng không đủ trình độ để kiểm chứng hệ thống đánh giá rủi ro của các TCTD có phù hợp hay không thì sẽ rất nguy hiểm cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Chẳng hạn như khi được sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ, nhiều TCTD có thể quá lạc quan về triển vọng khách hàng của mình và không có các biện pháp đối phó cũng như phòng ngừa thích hợp, dẫn đến khả năng vỡ nợ của khách hàng có thể kéo theo sự vỡ nợ của ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung.
>>> Xem thêm: Kết quả đạt được trong công tác quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn BASEL II tại Vietcombank
3. Nguyên nhân từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cơ chế điều hành hoạt động tiền tệ, tỷ giá của NHNN Việt Nam dẫn đến việc can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng, làm cho Vietcombank và các NHTM khác không chủ động trong việc thay đổi chính sách và chiến lược kinh doa
Mặc dù NHNN Việt Nam đã xây dựng được lộ trình cụ thể về thời gian áp dụng Hiệp ước Basel II đối với các nhóm NHTM, nhưng lại chưa hướng dẫn chi tiết về quy trình, điều kiện và tiêu chuẩn… trong việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng theo Basel II.
NHNN ban hành quá nhiều văn bản pháp quy liên quan đến việc ứng dụng Basel II, tuy nhiên các quy định trong nội dung các văn bản đó chưa đồng bộ, còn chung chung, không cụ thể theo đặc trưng của mỗi NHTM bắt buộc phải ứng dụng Basel II vào công tác quản trị rủi ro. Do đó, Vietcombank cũng như các NHTM khác khi thực hiện đã gặp nhiều khó khăn và mức độ hoàn thành và chất lượng chưa tốt không đạt được như yêu cầu của NHNN đề ra. Chẳng hạn: đã có một số NHTM đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tương đối khoa học. Tuy nhiên, do NHNN không có quy định thống nhất cụ thể đối với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, do đó các NHTM nói chung và một số NHTM đã xây dựng hệ thống này chưa đánh giá và khai thác hết vai trò, lợi ích của việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong việc quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập DPRR. Do các NHTM tự xây dựng theo một phương pháp riêng đã tạo ra sự không thống nhất giữa các NHTM trong việc quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.
4. Một số nguyên nhân khách quan khác
Hạ tầng viễn thông của Việt Nam còn ở mức thấp, chi phí cao dẫn đến hạn chế tốc độ tự động hoá và số hoá trong giao dịch ngân hàng, không hỗ trợ được công tác quản trị điều hành. Ví dụ: chi phí thuê một đường truyền dữ liệu bằng cáp quang của một đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông từ một điểm giao dịch về trung tâm xử lý của ngân hàng rất cao, thường là trên 10.000 USD/năm cho một đường truyền tốc độ 128 kps. Tại phần lớn địa phương vẫn phải sử dụng đường truyền Dial-up với tốc độ 56 kps, không đảm bảo tốc độ xử lý các giao dịch tài chính của ngân hàng.
Số lượng các công ty cung cấp giải pháp, phần mềm phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, từ các chương trình tác nghiệp đến hệ thống giải pháp quản lý tại Việt Nam chưa nhiều, chưa đáp ứng nhu cầu về công nghệ của các NHTM. Phần lớn các giải pháp công nghệ trong ngân hàng hiện nay phải nhập từ nước ngoài, dẫn đến tình trạng lệ thuộc và hạn chế khả năng cải tiến, mở rộn
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan dẫn đến hiện trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng nói riêng và quản trị rủi ro nói chung theo tiêu chuẩn Hiệp ước Basel II của Vietcombank hiện nay còn ở mức yếu kém. Để khắc phục được những tồn tại đó, đòi hỏi phải có một nỗ lực mạnh mẽ từ bản thân Vietcombank cũng như các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng khác để xây dựng một môi trường tổng thể các yếu tố, điều kiện giúp Vietcombank và các NHTM Việt Nam nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro, đủ sức đối mặt với những thách thức cạnh tranh từ bên ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.