Tài Chính - Ngân HàngTin chuyên ngành

Đánh giá chung thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam

Đánh giá chung thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam

1. Những kết quả đạt được

– Chính phủ đã thành lập hai công ty mua bán nợ của Nhà nước (DATC thành lập năm 2003 và VAMC thành lập năm 2013), góp phần quan trọng trong việc giải quyết nợ xấu, hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp, cụ thể: Sau hơn 10 năm hoạt động, DATC đã đạt một số kết quả nhất định trong việc mua, xử lý nợ xấu. Thông qua công tác mua nợ, chuyển đổi quyền chủ nợ từ các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng thua lỗ đã được DATC xử lý để lành mạnh tài chính, khôi phục sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực hoạt động và chuyển đổi thành công ty cổ phần có vốn góp của DATC. Sau khi được tái cơ cấu, các doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh và đã đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước, giúp cho việc tái cấu trúc thành công các doanh nghiệp. Mặt khác, hoạt động kinh doanh của DATC cũng đạt được mục tiêu khi thành lập là bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao. Còn đối với VAMC, sau 3 năm hoạt động, bằng việc mua nợ xấu của các TCTD, VAMC đã giúp các TCTD chuyển dịch một lượng lớn nợ xấu ra khỏi Bảng cân đối kế toán, góp phần xử lý nợ xấu của các TCTD (tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng đến 31/12/2015 về ngưỡng an toàn dưới 3%), từ đó các TCTD có thể tiếp tục cho vay vốn hỗ trợ doanh nghiệp nói riêng và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nói chung, qua đó thấy được quyết tâm và chỉ đạo đúng đắn của Chính phủ và NHNN trong việc thành lập VAMC với những hướng xử lý tốt đã khiến nợ xấu của hệ thống ngân hàng giảm theo đúng lộ trình đã đề ra.

– Hệ thống các chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động mua bán nợ xấu đã từng bước được hoàn thiện như Luật Kinh doanh bất động sản, chính sách thuế, chính sách tín dụng, quy định về phân loại nợ; đồng thời, các quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của các công ty mua bán nợ của Nhà nước đã được xây dựng và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Thêm nữa, thông tin về nợ xấu, hoạt động của DATC, VAMC đã dần dần được công khai, việc tuyên truyền, trao đổi, cung cấp thông tin đã rõ ràng hơn góp phần làm cho các định chế tài chính, các nhà đầu tư trong và ngoài nước hiểu và nhận thức đầy đủ hơn về chủ trương, biện pháp tái cơ cấu TCTD, xử lý nợ cũng như vai trò của các công ty mua bán nợ Nhà nước. Hiện có nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước có ý định tham gia mua lại nợ xấu của DATC, VAMC. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã quan tâm nhiều hơn đến thị trường mua bán nợ xấu của Việt Nam. Thậm chí có những Tập đoàn tài chính lớn như Black Stone, chưa bao giờ xuất hiện ở Việt Nam vì không có hợp đồng nào đủ lớn để họ tham gia, nay cũng muốn mua nợ xấu.

– Thị trường sơ cấp mua bán nợ xấu đã được hình thành, tuy khối lượng giao dịch chưa nhiều nhưng kết quả đạt được đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của thị trường mua bán nợ nói chung và thị trường mua bán nợ xấu nói riêng. Khối lượng giao dịch bắt đầu chuyển biến từ khi VAMC đi vào hoạt động vào tháng 10/2013, đặc biệt mạnh mẽ hơn kể từ giữa năm 2014 sau nhiều chỉ đạo quyết liệt của NHNN theo định hướng của Chính phủ. Kết quả, đến cuối năm 2015 khối lượng nợ xấu mua được đạt 49,49% tổng nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu còn lại trên tổng dư nợ tín dụng đã giảm qua các năm từ 4,08% năm 2012 xuống 3,61% năm 2013, xuống 3,25% năm 2014 và 2,72% năm 2015.

– Số lượng các chủ thể bán nợ bắt đầu được mở rộng: từ 32 TCTD đề nghị bán nợ cho VAMC năm 2013, đã tăng lên thành 39 TCTD vào năm 2014 và 41 TCTD năm 2015. Số lượng các doanh nghiệp được DATC mua nợ, xử lý nợ và tài sản tồn đọng giai đoạn 2011-2015 là 392 doanh nghiệp. Số lượng các khách hàng có nợ xấu qua các TCTD được bán nợ cho VAMC giai đoạn 2013-2015 là 16.017 khách hàng. Đây là con số rất nhỏ nhưng cũng đã phần nào thể hiện sự quan tâm, nhận thức của các chủ thể kinh doanh (dù trực tiếp hay gián tiếp) trên thị trường đến hoạt động mua bán nợ xấu.

2. Những vấn đề tồn tại

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua hoạt động của thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam còn tồn tại nhiều vướng mắc, khó khăn cần được tiếp tục tháo gỡ, cụ thể:

Một là, Thị trường mua bán nợ xấu sơ cấp, thứ cấp đều chưa phát triển và thiếu tính cạnh tranh

Để thị trường mua bán nợ xấu phát triển, điều kiện quan trọng là phải có nhiều bên tham gia, trong đó các tổ chức mua bán nợ chính là lực lượng chủ yếu để triển khai xử lý nợ xấu. Trên thị trường, mặc dù nguồn cung về nợ xấu khá lớn nhưng số lượng công ty chuyên về mua bán nợ xấu lại không nhiều. Ở Việt Nam hiện chỉ có DATC, VAMC và khoảng 20 công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại là các tổ chức có thể mua, bán nợ. Tuy nhiên, trong các công ty mua bán nợ trực thuộc ngân hàng thương mại, nhiều công ty hiện nay chỉ hoạt động trong phạm vi các tài sản và khoản nợ của NHTM mẹ, thay vì tham gia vào thị trường mua bán nợ với các AMC khác. Chưa kể một số trường hợp, các công ty AMC còn là công cụ để các ngân hàng lách quy định của Nhà nước như lách trần tín dụng hoặc để tạm thời che giấu nợ xấu. Thực tế cho thấy, hiện nay gần như mới chỉ có hai công ty là DATC và VAMC tham gia mua bán nợ xấu trên thị trường mà quy mô, phạm vi và nguồn lực tài chính, kinh nghiệm xử lý của DATC, VAMC chưa đáp ứng được kỳ vọng xử lý nợ xấu với quy mô nợ xấu cần mua bán của Việt Nam. So với quy mô thị trường nợ xấu, khi số lượng các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp còn quá ít sẽ dẫn tới tình trạng độc quyền mua, điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường và tác động đến nhu cầu muốn bán nợ.

Theo tiến trình phát triển kinh tế thị trường của Việt Nam đến năm 2020, số lượng doanh nghiệp sẽ tăng lên khoảng 1 triệu doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp sẽ tăng lên, thị trường sản xuất, kinh doanh không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra toàn cầu. Khi đó, tình hình sản xuất, kinh doanh sẽ càng phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược tốt, năng lực điều hành sản xuất, kinh doanh tốt nếu không sẽ bị rơi vào nguy cơ rủi ro cao, sẽ nảy sinh việc nhiều doanh nghiệp sẵn sàng bán các khoản nợ và tài sản, dẫn đến nguồn cung sẽ rất nhiều và đa dạng. Lúc đó, nhu cầu mua lại các khoản nợ xấu sẽ rất lớn, thị trường mua bán nợ xấu cần phải có thêm nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, gồm cả nhà đầu tư cá nhân có tiềm lực tài chính khác tham gia mua bán nợ xấu.

Hai là, Nguồn vốn của các công ty mua bán nợ hạn chế làm công tác xử lý nợ xấu gắn với tái cấu trúc cũng hạn chế theo

Hiện trên thị trường chỉ có ba công ty mua bán nợ có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng: AMC của Ngân hàng Eximbank là 1.700 tỷ đồng, VAMC là 2.000 tỷ đồng, DATC với số vốn mới được điều chỉnh lên mức 6.000 tỷ đồng từ 15/10/2015. Còn lại hầu hết các AMC khác đều có quy mô vốn nhỏ nên gặp nhiều khó khăn khi xử lý những món nợ xấu lớn. Hiện vẫn chưa có các Quỹ đầu tư lớn tham gia vào thị trường mua bán nợ của Việt Nam. Vốn nhỏ cộng với tốc độ xử lý nợ rất chậm dẫn đến tốc độ quay vòng vốn của các công ty mua bán nợ bị ảnh hưởng theo. Có khi phải mất từ 3 đến 5 năm để xử lý một khoản nợ.

Hoạt động của VAMC trong thời gian đầu mới tập trung vào việc mua lại nợ xấu của các TCTD, đây cũng chỉ được coi như biện pháp mang tính chất tạm thời của xử lý nợ xấu vì việc VAMC sử dụng trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu giúp các ngân hàng làm sạch tạm thời Bảng cân đối kế toán mà chưa tham gia nhiều và trực tiếp vào quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức này. Để thu mua nợ xấu hoặc bảo lãnh tài sản thế chấp cần có rất nhiều tiền, mặc dù vốn điều lệ của VAMC đã được tăng từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng nhưng so với số lượng nợ xấu trong nền kinh tế như hiện nay thì vẫn chưa đủ để hoạt động xử lý nợ hiệu quả.

Mặt khác, có một rào cản chính là yêu cầu thể hiện ngay trong mục tiêu hoạt động của DATC. Đó là vừa phải hỗ trợ quá trình tái cơ cấu, sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước nhưng lại vừa phải hoạt động có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn giống một doanh nghiệp kinh doanh thông thường. Đây là một bài toán khó đối với DATC. Đối với công ty mà DATC đã mua được nợ, chuyển nợ thành cổ phần của DATC tại doanh nghiệp thì đối với cổ phần của DATC thực tế không có tiền mặt vì chỉ là chuyển nợ thành vốn góp. Đối với công ty cổ phần sau khi tái cấu trúc tài chính chỉ giảm trừ được một phần nợ, có thể kéo dài thời hạn trả nợ nhưng cũng không thêm nguồn tiền để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Tất cả các doanh nghiệp được DATC mua nợ và tái cấu trúc tài chính đều không có khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng theo nguyên tắc cho vay của ngân hàng quy định. Không nhận được sự hỗ trợ kịp thời sau khi được tái cấu trúc tài chính, xóa nợ nên nhiều doanh nghiệp lại tiếp tục rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính dẫn đến tiếp tục khó khăn trong hoạt động kinh doanh và khả năng trả nợ cho DATC hạn chế. Điều đó xảy ra không chỉ đối với doanh nghiệp là công ty nhà nước tái cấu trúc và chuyển đổi sở hữu mà cả các công ty cổ phần được chuyển đổi từ công ty nhà nước được tái cấu trúc cũng rơi vào tình trạng này. Hệ lụy của nó là khả năng thu hồi nợ của DATC bị ảnh hưởng khá nhiều, thậm chí có thể không còn khả năng thu nợ.

Do hạn chế về vốn nên các công ty mua bán nợ chưa có sự hỗ trợ tích cực nhất là vấn đề tài chính cho doanh nghiệp khách nợ sau khi tái cấu trúc tài chính. Các doanh nghiệp khách nợ sau khi được hỗ trợ tái cấu trúc về tài chính mới tạm thời giảm bớt khó khăn tại thời điểm tái cấu trúc. Đối với công ty nhà nước thì mới hết âm vốn chủ sở hữu đủ điều kiện để cổ phần hóa. Sau khi cổ phần hóa nguồn tiền thực tế của doanh nghiệp dùng cho hoạt động kinh doanh chỉ có một phần vốn điều lệ, đó là số tiền thu được do bán cổ phần cho đối tượng khác.

Ba là, Năng lực xử lý nợ xấu của các tổ chức mua bán nợ còn hạn chế

Năng lực xử lý nợ xấu trong quá trình tái cấu trúc yếu kém thể hiện rõ ở việc xử lý nợ và tài sản tiếp nhận chậm, kéo dài, ngay cả ở DATC. Thời hạn này thường kéo dài, chậm trễ làm hạn chế đáng kể đến hiệu quả công việc này. Việc đàm phán mua nợ cũng thường rất khó khăn do chưa có những chuẩn mực chung trong xác định giá trị khoản nợ, do thiếu hệ thống kế toán phù hợp để xác định giá trị hợp lý (fair value) của khoản nợ. Nếu doanh nghiệp khách nợ có nhiều chủ nợ lớn có ảnh hưởng đến quá trình tái cấu trúc tài chính của doanh nghiệp khách nợ thì DATC còn phải đàm phán với các chủ nợ này trước khi quyết định mua nợ. Khâu tốn nhiều thời gian là khâu phê duyệt phương án và đàm phán trong trường hợp có nhiều chủ nợ. Sau khi mua nợ xong việc đàm phán tái cấu trúc cho doanh nghiệp khách nợ cũng thường kéo dài, nhất là khâu xin ý kiến việc xóa một phần nợ cho khách nợ.

Đối với VAMC, việc mua bán nợ xấu mới hoàn thành được một phần yêu cầu đặt ra là mua nợ xấu, còn việc xử lý các khoản nợ đã mua về kết quả còn rất hạn chế, thể hiện ở tỷ lệ thu hồi nợ từ năm 2013 đến hết năm 2015 đạt 11% so với giá vốn mua nợ. Trên thực tế, ngoài năng lực xử lý nợ, còn có các yếu tố khách quan làm chậm quá trình xử lý này. Muốn bán nợ xấu, VAMC phải bán hoặc phát mãi tài sản thế chấp song bản thân các doanh nghiệp muốn có thêm thời gian để tái cấu trúc, hoặc ít nhất cũng đợi bất động sản tăng giá để bán tài sản thế chấp có lợi hơn. Chính vì vậy, VAMC đã để ra một khoảng trống để các doanh nghiệp có thêm thời gian để tự xử lý, Tuy nhiên khoảng trống đó cần có thời hạn để xử lý dứt điểm các khoản nợ, tránh tồn đọng nợ lâu. Ngoài ra, về cơ cấu nợ, tổ chức tín dụng không đồng ý cho doanh nghiệp miễn giảm lãi trong trường hợp tài sản bảo đảm có giá trị lớn, đồng thời tổ chức tín dụng cũng không đồng thuận trong việc cơ cấu nợ, miễn giảm lãi, cho vay bổ sung khi tài sản bảo đảm có giá trị kém do tâm lý bị xử lý hình sự hóa sau khi cơ cấu nợ khách hàng không trả được nợ. Khách hàng chưa đưa ra được phương án sản xuất kinh doanh khả thi, chưa chứng minh được tình hình tài chính. Chính vì vậy VAMC không thể chủ động tiến hành tái cơ cấu nợ, miễn giảm lãi cho khách hàng khi tổ chức tín dụng chưa thống nhất. Bên cạnh đó, quá trình thu hồi nợ cũng có nhiều rắc rối khi VAMC không có quyền chủ động xử lý những khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt, không có nhiều vai trò định đoạt tài sản bảo đảm các khoản nợ xấu đã mua. Ngoài việc bán lại khoản nợ xấu đã mua cho các đối tác trong và ngoài nước ra, những khoản nợ xấu VAMC mua lại có thể được xử lý thông qua việc VAMC yêu cầu các bên thực hiện tái cấu trúc. Tuy nhiên, trong trường hợp thực hiện tái cấu trúc các khoản nợ xấu, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tìm ra giải pháp để tái cấu trúc, VAMC chỉ đứng vai trò là chủ nợ và sẽ quyết định phương án tái cấu trúc cuối cùng sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và nền kinh tế.

Bốn là, Thông tin về hàng hóa nợ xấu trên thị trường thiếu minh bạch, còn nhiều bất cập

VAMC thực hiện mua bán nợ xấu với nguyên tắc không dùng vốn ngân sách nhà nước. Do đó, sẽ là rất quan trọng nếu công ty này có thể xây dựng một kế hoạch xử lý nợ xấu chính xác dựa trên các thông tin có sẵn, nhằm giảm thiểu được các chi phí phát sinh. Trên cơ sở thông tin về nợ xấu thống nhất, minh bạch, VAMC mới có thể đưa ra chiến lược và các phương án thích hợp để mua bán và xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, điều này không dễ dàng bởi thị trường thông tin về nợ xấu hiện nay còn chưa đồng nhất và thiếu tính minh bạch. Cụ thể: Một là, các con số nợ xấu khác nhau và có sự chênh lệch giữa các TCTD và cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Hiện nay, NHNN đang dựa trên hai nguồn số liệu khác nhau để giám sát tình hình nợ xấu của các TCTD, bao gồm số liệu do các TCTD báo cáo và số liệu nợ xấu theo kết quả giám sát của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Xét về tính khách quan và mức độ tin cậy, cơ quan giám sát ngân hàng có nhiều nguồn thông tin khác nhau để đánh giá chất lượng nợ xấu của TCTD (thông tin chung về toàn hệ thống, thông tin về khách hàng vay, thông tin từ hoạt động thanh tra tại chỗ…) nên có độ tin cậy cao hơn, do đó VAMC sẽ gặp khó khăn trong công tác xử lý nợ xấu khi tiếp nhận thông tin nợ xấu từ các TCTD có ý định bán nợ xấu cho VAMC. Hai là, do quan hệ sở hữu chéo và những lợi ích kinh tế gắn kết giữa ngân hàng và các doanh nghiệp liên quan đến các chủ sở hữu, nên có thể xuất hiện trường hợp các NHTM không muốn chuyển giao nhóm đối tượng khách hàng đặc biệt này cho VAMC. Các NHTM có thể dùng kỹ thuật tài chính để đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3%; hoặc nếu buộc phải bán nợ thì các tài liệu, đánh giá nội bộ, thông tin về doanh nghiệp có thể không được chuyển giao hoàn toàn cho VAMC, gây ảnh hưởng đến tốc độ xử lý nợ xấu. Đối với các NHTM cổ phần nhà nước, việc bán nợ cho VAMC cũng đồng nghĩa với việc để lộ ra những khoản vay không hiệu quả. Đây là những rào cản lớn nhất làm chậm quá trình xử lý nợ xấu của VAMC cũng như các tổ chức mua bán nợ khác vì thông tin nợ xấu không chính xác khiến cho việc lập chiến lược và thực hiện quy trình giải quyết dứt điểm nợ xấu trở nên khó khăn.

Mặt khác, trong quá trình xử lý nợ xấu, nhiều TCTD chưa chủ động, tích cực trong việc bán nợ xấu cho các công ty mua bán nợ. Nếu không có vai trò chủ động, quyết liệt của NHNN mà trực tiếp là Cơ quan thanh tra giám sát thì Công ty Quản lý tài sản (VAMC) khó có thể hoàn thành kế hoạch mua nợ xấu. Qua quá trình tích cực xử lý nợ xấu, đến 31/12/2015 tỷ lệ nợ xấu đã về mức 2,72%. Khi đó, các NHTM không có sức ép để xử lý tiếp nợ xấu và có thể thị trường mua bán nợ xấu sơ cấp sẽ lại trầm lắng, như vậy, thị trường mua bán nợ xấu khó có thể phát triển do nhu cầu mua bán nợ không còn lớn, không thể tạo nổi lượng “hàng hóa” cho thị trường hoạt động. Chỉ khi thị trường mua bán nợ xấu sơ cấp hoạt động mạnh thì mới có nhiều hàng hóa để lưu thông trên thị trường thứ cấp. Khi cả thị trường mua bán nợ sơ cấp và thứ cấp hoạt động mạnh thì khi đó thị trường mua bán nợ xấu mới thật sự phát triển theo đúng nghĩa.

Điều này còn chưa tính đến việc mua nợ xấu của VAMC chỉ mới thực hiện xử lý nợ xấu hiện hữu mà chưa xem xét “nợ xấu tiềm tàng” và khả năng “tái nợ xấu”. Đây là điều cốt yếu nhất khi hệ thống doanh nghiệp phục hồi còn chậm, khả năng hấp thụ vốn yếu.

Năm là, Phương thức mua bán nợ xấu còn thiếu tính đa dạng

Theo quy định của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 quy định các bên tham gia mua, bán nợ được lựa chọn một trong hai phương thức sau: “1. Phương thức mua, bán nợ thông qua đấu giá các khoản nợ thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. 2. Phương thức mua, bán nợ thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và bên mua nợ hoặc thông qua môi giới”. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc sử dụng 2 phương thức của các tổ chức này vẫn hạn chế mà chủ yếu là theo thỏa thuận do việc xác định giá để đấu giá vẫn còn khó khăn. Ngoài ra phương thức mua nợ theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ chỉ áp dụng cho DATC, giá cả mua bán sẽ do các cơ quan quản lý nhà nước liên quan xem xét, xây dựng, thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Theo Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 6/9/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam, Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) được mua nợ xấu của các TCTD dưới 2 hình thức: bằng trái phiếu đặc biệt và mua theo giá trị thị trường. Một trái phiếu đặc biệt được phát hành tương ứng với một khoản nợ xấu được mua, bán. Trường hợp khoản nợ xấu được mua, bán là khoản cấp tín dụng hợp vốn, VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt tương ứng cho từng TCTD tham gia tín dụng hợp vốn. Mệnh giá của trái phiếu đặc biệt có giá trị bằng giá mua của khoản nợ xấu theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian qua VAMC mới áp dụng việc mua nợ xấu dưới hình thức phát hành trái phiếu đặc biệt. Đây là loại trái phiếu mà các TCTD có thể sử dụng để tái cấp vốn tại NHNN (theo quy định tại Quyết định số 2358/QĐ-TTg, Thông tư số 20/2013/TTNHNN). Tuy nhiên, xét về dài hạn, việc mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt sẽ có một số hạn chế: (i) Nếu sử dụng trái phiếu đặc biệt trong thời gian dài thì hàng năm các TCTD sẽ phải trích lập dự phòng bằng 20% giá trị của trái phiếu đặc biệt, do đó hạn chế tăng trưởng tín dụng chung của cả hệ thống; (ii) Công tác xử lý nợ thường kéo dài, nên việc thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra của VAMC sẽ mất nhiều chi phí, điển hình là phí quản lý để BĐS không bị xuống cấp, mất giá trị và bảo lãnh tài sản thế chấp; (iii) Nếu chỉ dựa vào trái phiếu đặc biệt, VAMC sẽ không thể mua và giải quyết dứt điểm toàn bộ các khoản nợ xấu hiện nay, gây áp lực lớn về chi phí đối với công ty nếu quá trình xử lý nợ kéo dài.

3. Nguyên nhân tồn tại

Cơ chế, chính sách liên quan đến khuôn khổ pháp lý đối với thị trường mua bán nợ xấu còn một số bất cập

Cơ chế chính sách đối với các AMC trực thuộc ngân hàng thương mại chưa được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới

Các văn bản quy định cho AMC hơn 10 năm qua không được sửa đổi, bổ sung dù nhiều nội dung không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Theo quy định tại Quyết định số 1390/2001/QĐ-NHNN ngày 7/11/2001 của NHNN ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của AMC, hoạt động của các AMC trực thuộc NHTM là: (i) Xử lý nợ cho ngân hàng mẹ thông qua việc bán tài sản đảm bảo; (ii) Mua bán nợ của TCTD khác. Trên thực tế, do quy mô vốn nhỏ, phụ thuộc vào vốn cấp của ngân hàng mẹ nên hầu như các AMC chỉ nhận nợ từ ngân hàng mẹ dưới hình thức ủy thác để xử lý thông qua thu nợ trực tiếp, khai thác bán tài sản đảm bảo,chưa thực sự mua, bán nợ theo đúng nghĩa.

Cơ chế chính sách đối với VAMC

Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam đã nêu rõ VAMC có 2 hình thức mua lại khoản nợ: Thứ nhất, các khoản nợ xấu sẽ được mua bằng một loại trái phiếu đặc biệt với giá trị tương đương giá trị trong sổ sách của khoản vay, trừ đi các khoản dự phòng đã trích lập nhưng chưa được sử dụng. Thứ hai, VAMC có thể xử lý nợ xấu tính theo thị trường, tức là khoản nợ sẽ được mua lại với giá trị thị trường. Loại hình này chỉ được áp dụng khi khoản nợ có khả năng thu hồi đầy đủ khoản tiền dùng để mua nợ xấu, tài sản bảo đảm có khả năng phát mại và khách hàng có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ. Khi đó, giá trị khoản nợ cũng sẽ được đánh giá lại. Thế nhưng, để thực hiện quá trình xử lý nợ xấu giống như một AMC thông thường thì cần phải có một nguồn lực về nhân lực và tài chính đủ mạnh. Trong khi đó, Nghị định số 53/2013/NĐ-CP vẫn chưa hề đề cập tới phương thức huy động vốn của VAMC để có nguồn vốn mua nợ và những giải pháp về nhân lực để giải quyết nợ xấu theo loại hình này. Do đó, hình thức mua và xử lý nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt chiếm ưu thế hơn cả. Mặt khác, VAMC không phải trích lập dự phòng khi mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt và cũng không chịu áp lực phải xử lý nợ xấu, vì nếu không xử lý được thì TCTD phải mua lại đúng bằng mệnh giá. Ngoài ra, VAMC không phải trả lãi cho trái phiếu đặc biệt nên không phát sinh chi phí liên quan đến trái phiếu. Dù có thu hồi vốn vay với bất kỳ mức giá nào thì công ty này cũng không sợ lỗ. Còn đối với các NHTM, về quyền hạn, trách nhiệm, mặc dù VAMC đã mua nợ xấu nhưng theo quy định ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm trích dự phòng rủi ro, thu hồi nợ, bán nợ, bán tài sản bảo đảm, thậm chí gánh chịu hậu quả nếu xảy ra thất thoát. Do vậy các ngân hàng vẫn xác định quyền chủ nợ của họ khi đến hạn trái phiếu đặc biệt (thông thường tối đa 5 năm) sẽ thu hồi nên đây cũng là một trong các lý do ngân hàng không hợp tác chặt chẽ với VAMC.

Nghị định 18/2016/NĐ-CP bổ sung quy định: Đối với khoản nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt, hàng năm, Công ty Quản lý tài sản được thu một số tiền theo một tỷ lệ do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính tính trên số dư nợ gốc còn lại cuối kỳ của khoản nợ đang được hạch toán nội bảng trên bảng cân đối kế toán của Công ty.

Đối với khoản nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt, Công ty được thu một số tiền trên số tiền thu hồi khoản nợ xấu theo tỷ lệ do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính trừ đi số tiền Công ty đã thu theo quy định trên, trong trường hợp số tiền thu được từ thu hồi khoản nợ xấu lớn hơn số tiền đã thu trên.

 Còn trong trường hợp số tiền này nhỏ hơn số tiền Công ty đã thu theo quy định trên thì VAMC không phải hoàn trả tổ chức tín dụng số tiền đã thu theo quy định trên.

Trước đó, Nghị định 53/2013/NĐ-CP chỉ quy định Công ty được hưởng một tỷ lệ trên số tiền thu hồi các khoản nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước sau khi thống nhất với Bộ Tài chính.

Nghị định 18/2016/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung Khoản 2, Điều 14, Nghị định 53/2013/NĐ-CP như sau: VAMC mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường trên cơ sở thỏa thuận và giá trị khoản nợ xấu được đánh giá lại.

Tổ chức tín dụng được phân bổ dần vào chi phí hoạt động phần chênh lệch giữa giá trị ghi sổ trừ đi giá trị mua bán của khoản nợ được mua theo giá trị thị trường và giá trị khoản dự phòng rủi ro đã trích cho chính khoản nợ được mua – bán theo 2 nguyên tắc:

– Đối tượng được phân bổ là tổ chức tín dụng bị lỗ hoặc khi thực hiện việc phân bổ ngay phần chênh lệch này sẽ dẫn đến bị lỗ;

– Việc phân bổ được thực hiện trong thời hạn tối đa không quá 5 năm từ thời điểm bán nợ. Số tiền phân bổ hàng năm không được thấp hơn chênh lệch thu – chi (chưa bao gồm số tiền phân bổ). Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết việc phân bổ này.

Ngoài ra, Nghị định mới cũng bổ sung thêm quy định về việc gia hạn trái phiếu đặc biệt. Theo đó, sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, Công ty Quản lý tài sản gia hạn thời hạn của trái phiếu đặc biệt đã phát hành để mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng đang thực hiện phương án tái cơ cấu hoặc gặp khó khăn về tài chính.

Cơ chế chính sách đối với DATC

Với vai trò là công cụ tài chính của Chính phủ, DATC đã được tăng cường năng lực tài chính để tham gia vào các hoạt động mua bán nợ. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động, mặc dù cơ chế hoạt động của DATC đã được sửa đổi, bổ sung nhưng chỉ dưới hình thức Thông tư, Quyết định của Bộ Tài chính, căn cứ vào các Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn chung cho hoạt động của doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Do đó, các văn bản này chưa được hoàn thiện để phù hợp với đặc thù hoạt động của công ty vì các Thông tư, Quyết định của Bộ Tài chính không quy định các nội dung vượt thẩm quyền.

Mặt khác, cho đến nay vẫn chưa có những quyết định mang tính đột phá trong việc tạo hành lang pháp lý cơ bản cho công tác mua bán nợ. Vì lẽ đó, khối lượng nợ xấu mà DATC mua được giai đoạn 2011 – 2015 mới đạt 10.561 tỷ đồng giá trị các khoản nợ theo sổ sách – một con số rất ít so với thực tế và ít ngay cả với khả năng mua bán nợ của DATC. Thiếu cơ chế nên việc mua nợ của DATC thời gian qua rất khó khăn. Đặc biệt, trong quá trình tìm hiểu thông tin về mua bán nợ xấu, các ngân hàng thường đưa ra giá bán nợ khá cao, không phù hợp với tính chất khoản nợ đem bán (DN thua lỗ lớn, tài sản bảo đảm cho khoản nợ không có tính thanh khoản, lĩnh vực kinh doanh khó…). Mặt khác, cơ chế hướng dẫn bán nợ của ngân hàng chưa đồng bộ, đặc biệt là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Trong khi việc mua bán nợ với các NHTM (Nhà nước và cổ phần) đã được thực hiện trong nhiều năm, nhưng riêng với đặc thù của VDB, việc bán nợ phải được Bộ Tài chính thông qua và phê duyệt. Trong nhiều trường hợp, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp, DATC đã phải chấp nhận mua nợ từ VDB với giá 100% giá trị nợ gốc, song quá trình phê duyệt bán nợ thường kéo dài, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của phương án tái cấu trúc doanh nghiệp. Hiện nay có nhiều hình thức xử lý nợ xấu nhưng qua thực tế hoạt động của DATC còn rất nhiều rào cản. Một là, về vấn đề thuế cần có cơ chế ưu đãi với doanh nghiệp đang nợ giống như thành lập mới một doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp có nợ xấu đang nợ đọng về thuế, nhưng theo cơ chế hiện hành của Luật Quản lý thuế, nếu doanh nghiệp không nộp thuế mỗi một ngày tính lãi 0,05%/ngày, tích lũy lại rất lớn. Hai là, phải có cơ chế để doanh nghiệp hoãn xử lý nợ thuế, hoãn xử lý nợ bảo hiểm xã hội, để xử lý trả dần theo tiến trình phục hồi của doanh nghiệp mới mong xử lý nợ xấu và phục hồi doanh nghiệp.

Ba là, cách thức cho vay của các tổ chức tín dụng cũng làm công tác tái cơ cấu khi xử lý nợ xấu khó khăn. Cụ thể, giai đoạn vừa qua khi các doanh nghiệp làm ăn được, TCTD vì lợi ích tăng trưởng tín dụng theo chỉ tiêu yêu cầu doanh nghiệp mở rộng sản xuất và bơm vốn ra, khi NHNN siết tín dụng, các TCTD rút tiền về, dòng tiền doanh nghiệp chảy về TCTD được giữ lại không cho vay nữa. Ví dụ, Công ty Thủy sản Phương Nam, 1 năm dòng vốn lưu động chảy về khoảng trên 200 tỷ đồng, nhưng ngay lập tức ngân hàng cắt vốn làm doanh nghiệp này lao đao. Nhiều doanh nghiệp có khả năng sản xuất để trả được nợ nhưng vì ngân hàng đưa ra các điều kiện ngặt nghèo như phải có phương án kinh doanh hiệu quả, vốn đối ứng, tài sản bảo đảm, không có nợ xấu…

👉👉👉 Xem thêm : Khái niệm phát triển thị trường mua bán nợ

Bên cạnh đó, trong năm 2014 nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp đã được ban hành như: Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 và Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 cùng được ban hành ngày 26/11/2014; các văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật đã và đang được sửa đổi, bổ sung, đòi hỏi các văn bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DATC cũng phải được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.

Chưa có quy định cho phép các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp được tham gia mua bán nợ

Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và không thuộc 3 đối tượng (DATC, VAMC và các công ty mua bán nợ trực thuộc ngân hàng thương mại) thì hiện tại chưa có quy định về điều kiện kinh doanh ngành, nghề mua bán áp dụng cho các đối tượng này. Trong thời gian chưa ban hành quy định về điều kiện kinh doanh ngành, nghề mua bán nợ sau khi Luật Đầu tư (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ không cấp đăng ký kinh doanh ngành nghề mua bán nợ cho các doanh nghiệp khác hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

Các quy định có liên quan khác như cơ chế tổ chức, vận hành, quản lý các doanh nghiệp chưa đầy đủ, chính sách tạo hành lang, môi trường cho thị trường mua bán nợ xấu phát triển chưa đồng bộ

– Quy định về thoái vốn của các DNNN đầu tư ra ngoài ngành cũng có những khó khăn nhất định với mua bán nợ. Yêu cầu cổ đông lớn khi thoái vốn tại công ty đại chúng phải đăng ký và chỉ được Ủy ban chứng khoán (UBCK) chấp thuận chào bán nếu doanh nghiệp được thoái vốn phải có lãi hay buộc phải bán đấu giá qua sàn giao dịch chứng khoán vô tình đã làm hạn chế các cơ hội thoái vốn ngoài ngành, vì nhiều doanh nghiệp cần thoái vốn thường bị lỗ hay nhà đầu tư (NĐT) không muốn đấu giá mua từng đơn vị cổ phần mà muốn đàm phán mua lô lớn để đủ tỷ lệ chi phối khi đầu tư vào doanh nghiệp.

– Vướng mắc của các công ty mua bán nợ như DATC, VAMC trong bán nợ là thiếu các văn bản quy định liên quan đến mua, bán nợ xấu, bán đấu giá tài sản và xử lý tài sản bảo đảm, cách xác định kết quả doanh thu hàng năm của VAMC. Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều ngân hàng đã kiện doanh nghiệp ra tòa để thu hồi tài sản thế chấp siết nợ. Tuy nhiên, ngay cả khi Tòa án đã có phán quyết, thì nhiều ngân hàng vẫn không thu hồi được tài sản của mình do cơ quan thi hành án không thi hành được bản án. Mặt khác, trong quá trình xử lý bán tài sản bảo đảm hiện đang vướng mắc về luật. Theo Luật Đầu tư 2014 quy định: “Kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện”. Hiện tại chỉ có VAMC, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) và một số công ty quản lý tài sản của các ngân hàng mới có thể thực hiện các giao dịch mua bán nợ xấu. Từ thực tế đó, VAMC muốn bán nợ xấu thì cũng không có nhiều khách hàng có thể mua mà chỉ có thể xử lý qua hình thức bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Hơn nữa, để bán nợ xấu thì việc định giá khoản nợ đến nay chưa có quy định cụ thể, cơ sở đánh giá rất phức tạp trong khi khả năng của VAMC trong giai đoạn này chưa thể tự định giá để mua bán được khoản nợ. Vì vậy, sẽ rất khó thực hiện việc bán khoản nợ đảm bảo tiêu chí công khai minh bạch. Ngoài ra, như ở trên đã đề cập, vướng mắc tồn tại với VAMC từ khi thành lập là đến nay vẫn chưa được thông báo về tỷ lệ được hưởng trên số tiền thu hồi các khoản nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt. Mặc dù hoạt động của VAMC theo nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng khi chưa đủ cơ sở để tính toán, xác định doanh thu thì cũng khó đánh giá hiệu quả hoạt động của VAMC, từ đó cũng thiếu động lực để VAMC thúc đẩy hoạt động mua và xử lý nợ xấu của mình.

– Về quyền của bên mua nợ xấu đối với tài sản bảo đảm: Đối với khoản nợ có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (QSDĐ), phần lớn các khoản nợ tại các TCTD thường gắn liền với việc thế chấp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nên khi thực hiện hoạt động mua bán nợ xấu với các TCTD thì các nhà đầu tư (không phải là các TCTD) sẽ phải tiếp nhận tài sản thế chấp này. Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 1, điều 175 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 có quy định: “Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập được thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam”, được hiểu là chỉ có TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam được nhận thế chấp, còn bên nhận thế chấp QSDĐ là các tổ chức, cá nhân (không phải là TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam) sẽ không thể trở thành bên nhận thế chấp dù có là chủ nợ của khoản nợ xấu. Do vậy, quy định này sẽ hạn chế việc bán các khoản nợ có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất cho các nhà đầu tư trong nước (không phải TCTD), nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư không được đứng tên là bên nhận thế chấp trong hợp đồng thế chấp QSDĐ cho khoản nợ mà nhà đầu tư mua. Đây có thể sẽ là vướng mắc rất lớn hạn chế nhà đầu tư mua nợ xấu có tài sản bảo đảm là bất động sản.

– Về đăng ký thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm: Nội dung này được thực hiện theo quy định tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 02 năm 2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm, điều 12 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, việc chuyển giao quyền đòi nợ có tài sản bảo đảm, các bên liên quan không phải ký kết lại giao dịch bảo đảm nhưng phải thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, tại Đơn đăng ký thay đổi nội dung thế chấp đã đăng ký theo quy định tại Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011 về hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì phải có chữ ký của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Do đó, trường hợp bán nợ xấu có thế chấp bằng bất động sản mà bên bảo đảm hoặc bên nợ không hợp tác sẽ gây khó khăn trong giao dịch đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm (là bên mua nợ xấu).

– Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa ban hành các chuẩn mực kế toán liên quan đến việc xác định giá trị hợp lý của doanh nghiệp. Điều này gây ra những khó khăn nhất định khi thực hiện định giá tài sản, xác định tỷ lệ góp vốn qua mua bán nợ xấu của doanh nghiệp.

Lĩnh vực mua bán nợ xấu là lĩnh vực mới nên hoạt động còn nhiều khó khăn

Lĩnh vực hoạt động kinh doanh về mua bán nợ xấu hoàn toàn mới không những trong khu vực nhà nước mà ở cả nước ta. Đây có thể coi là nguyên nhân khách quan làm phát sinh những tồn tại, hạn chế trong hoạt động kinh doanh mua bán nợ. Trước DATC chưa có doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực mua bán nợ. Vì vậy, khi đi vào hoạt động kinh doanh DATC phải mất thời gian để tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu phương thức kinh doanh ở Việt Nam, tìm hiểu các thông tin về chủ nợ, khách nợ, xây dựng các quy trình mua, xử lý nợ,… đồng thời vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Ngay đối với cơ quan quản lý nhà nước và các đối tác trong kinh doanh của DATC cũng còn rất bỡ ngỡ trong lĩnh vực này cũng làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động và kết quả kinh doanh của DATC.

Một lưu ý là ngành nghề kinh doanh của các công ty mua bán nợ như DATC là: Mua các khoản nợ và tài sản; tiếp nhận để xử lý các khoản nợ và tài sản; xử lý các khoản nợ và tài sản đã mua nhưng trong Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/2007 về việc ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam không có các ngành, nghề này.

Các công ty mua bán nợ khác cũng chỉ được ra đời trong vòng hơn 10 năm gần đây với sự hạn chế cả về nhân sự và kinh nghiệm. Công ty được nhiều kỳ vọng là VAMC cũng chỉ mới được thành lập ngày 9/7/2013.

Phần lớn cán bộ quản lý, điều hành, chuyên môn, nghiệp vụ của các công ty mua bán nợ như DATC, VAMC phần lớn mới chuyển từ công tác quản lý nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng sang, chưa có kinh nghiêm trong hoạt động kinh doanh đặc thù là mua bán nợ và nhất là tái cơ cấu doanh nghiệp, nên có không ít khó khăn, bỡ ngỡ. Trong khi đó tất cả các quy trình hoạt động của từng lĩnh vực như tiếp nhận nợ và tài sản nhận bàn giao từ các doanh nghiệp khác, quy trình mua nợ, quy trình xử lý nợ và tài sản nhận bàn giao hoặc đã mua, quy chế hoạt động nội bộ của công ty,… đều phải xây dựng mới từ đầu. Điều đó ảnh hưởng không ít đến kết quả, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty mua bán nợ.

Chính sách của Nhà nước về quyền sử dụng đất đai, về hạn chế đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp, về thị trường BĐS có nhiều rào cản cho sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân, nhất là nhà đầu tư nước ngoài

Chính sách đất đai với nhiều rào cản cho nhà đầu tư nước ngoài, quy định về tài chính với đất đai phức tạp, nhất là đối với các DNNN đã tạo ra những khó khăn với hoạt động mua bán nợ. Nhiều quy định chưa thực sự hỗ trợ việc mua bán các khoản nợ của các DNNN, chưa tạo động lực cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia vào hoạt động mua bán nợ xấu. Hiện nay, các rào cản về đất đai là một trong những vấn đề cần phải giải quyết nếu muốn thúc đẩy sự tham gia của các quỹ đầu tư tư nhân vào thị trường mua bán nợ nói chung và thị trường mua bán nợ xấu nói riêng.

(1) Liên quan đến thế chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ), theo quy định tại Luật Đất đai và Luật Đất đai sửa đổi, chỉ các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam mới được phép nhận thế chấp QSDĐ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp nước ngoài đều không được phép nhận thế chấp QSDĐ. Trên thực tế, chỉ có các TCTD, VAMC và DATC được phép mua nợ xấu được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là QSDĐ, không doanh nghiệp nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được phép mua các khoản nợ này.

(2) Liên quan đến hoạt động kinh doanh bất động sản (BĐS), theo quy định của Luật Kinh doanh BĐS năm 2006, để tham gia hoạt động kinh doanh BĐS, tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài không được phép trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh BĐS.

Ngoài ra, phạm vi hoạt động kinh doanh BĐS mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép thực hiện giới hạn ở: i) đầu tư tạo lập các công trình xây dựng để bán hoặc cho thuê; ii) đầu tư cải tạo đất và đầu tư các công trình hạ tầng trên đất để cho thuê đất đã có hạ tầng; iii) cung cấp các dịch vụ kinh doanh BĐS, bao gồm dịch vụ môi giới BĐS, dịch vụ định giá BĐS và các dịch vụ tư vấn BĐS. Cũng theo Luật Kinh doanh BĐS, thậm chí kể cả trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có được QSDĐ, họ cũng không được phép chuyển nhượng lại đất.

Những quy định nêu trên sẽ hạn chế việc chuyển nhượng hay cho thuê QSDĐ hoặc công trình xây dựng của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài có thể không đổ vào thị trường BĐS và do đó, thị trường BĐS có thể rơi vào tình trạng đình trệ. Kết quả là quyền đòi nợ được đảm bảo bằng BĐS không thực sự hấp dẫn đối với người mua (đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài) và điều này trở thành một trong những yếu tố ngăn cản việc bán nợ xấu có tài sản bảo đảm là BĐS.

Luật Kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13 ngày 25/11/2014 có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 cho phép các tổ chức nước ngoài được đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án để bán, cho thuê, cho thuê mua tại Việt Nam theo quy định. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài không có chức năng kinh doanh bất động sản, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam được mua, nhận tặng/cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại trong dự án phát triển nhà ở, dự án khu đô thị mới, dự án bất động sản du lịch tại Việt Nam, tuy nhiên Luật này mới được thông qua nên chưa phát huy được hiệu quả.

Vướng quy định hạn chế về đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp: Một số khoản nợ xấu được đảm bảo bằng cổ phần trong doanh nghiệp nợ. Vì vậy, một số nhà đầu tư có thể mua nợ xấu nhằm sở hữu cổ phần tại doanh nghiệp nợ bằng phương thức chuyển nợ thành cổ phần. Tuy nhiên, do một số ngành nghề kinh doanh chưa mở cửa hoặc chỉ mở cửa một phần cho nhà đầu tư nước ngoài do luật pháp hiện hành quy định hạn chế tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam đối với một số ngành nghề kinh doanh. Ngoài ra, đối với các công ty đại chúng, tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế ở tỷ lệ 49%. Vì vậy, cho dù các nhà đầu tư nước ngoài được mua nợ xấu, trong một số trường hợp, vẫn có những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài theo phương thức mua cổ phần của doanh nghiệp nợ bằng phương thức chuyển nợ thành cổ phần hoặc phương thức xử lý tài sản bảo đảm. Những hạn chế này không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mua nợ xấu.

Chưa có cơ sở hạ tầng công nghệ để hỗ trợ cho hoạt động mua bán nợ xấu.

Do đó, các thông tin về hàng hóa nợ xấu, thông tin người có nhu cầu bán nợ xấu không đến được với người có nhu cầu mua nợ xấu. Có thể nhận định, nhiều nhà đầu tư như các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính… hiện đang hướng sự quan tâm đến thị trường mua bán nợ xấu của Việt Nam nhưng do thiếu thông tin nên họ luôn ở thế bị động, dẫn đến dù muốn nhưng không thể mạo hiểm để đầu tư vào mua bán nợ xấu. Điều đó cho thấy rằng, cầu về mua bán nợ xấu không nhỏ nhưng các doanh nghiệp chưa mạnh dạn khai thác thị trường này. Điều này làm quá trình mua bán nợ xấu mất nhiều thời gian, việc xử lý nợ xấu hầu như mới chỉ giao dịch trên thị trường sơ cấp.

Đánh giá chung thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam

Ngọc Thi

Tôi luôn muốn góp một phần nhỏ những kinh nghiệm của mình giúp các anh chị hoàn thành tốt luận án tiến sĩ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *