Các hoạt động ngân hàng bán lẻ
Các hoạt động ngân hàng bán lẻ
Trong những năm gần đây, KH cá nhân và hộ gia đình là đối tượng KH mục tiêu của hầu hết các NHTM. Xuất phát từ những hoạt động truyền thống,cho đến nay, các NH đã kế thừa và phát triển thêm hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của KH.
1. Hoạt động nhận tiền gửi
Tiền gửi là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của NH, trong đó tiền gửi cá nhân đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nguồn vốn trung và dài hạn cho các NHTM. Hoạt động nhận tiền gửi bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán, đây là các hoạt động bán lẻ phổ biến của các NHTM. Đồng thời đây cũng là những hoạt động chính mà các cá nhân làm căn cứ trong việc đưa ra quyết định lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ cho mình vì tất cả mọi khách hàng cá nhân và hộ gia đình đều có khả năng tiết kiệm, kể cả các khách hàng có thu nhập thấp, có nhu cầu mở tài khoản tiền gửi thanh toán để nhận tiền hoặc thực hiện các giao dịch thanh toán các cá nhân trong xã hội.
(a) Tiền gửi tiết kiệm dân cư
Nhận tiền gửi tiết kiệm dân cư là hoạt động có tính truyền thống nhất trong hoạt động bán lẻ của NHTM. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm những khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ lẻ để dành cho những mục đích nhất định của KH trong tương lai và không được sử dụng để thanh toán cá nhân như sử dụng séc, thẻ thanh toán…
Khách hàng cá nhân có thể căn cứ vào nhu cầu chi tiêu của mình để lựa chọn các kỳ hạn đa dạng như không kỳ hạn, ngắn hạn như một tuần, một tháng, nhiều tháng hay dài hạn. Hiện nay một số NH đã bổ sung thêm các tính năng mới như trả lãi định kỳ (KH có nhu cầu gửi dài hạn để hưởng lãi suất cao, mong muốn được nhận tiền lãi định kỳ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt), rút gốc linh hoạt (đáp ứng nhu cầu vốn linh hoạt cho KH mà không ảnh hưởng đến tiền lãi hoặc ảnh hưởng ít), dự thưởng (KH có cơ hội nhận được những phần thưởng ngoài tiền lãi)…
Tiết kiệm không kỳ hạn:
Với sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, KH có thể rút tiền ra hay gửi vào theo yêu cầu nhưng không được sử dụng vào mục đích thanh toán. Vì vậy nó thích hợp với những người có khoản tiền nhàn rỗi nhưng không xác định được thời gian cần sử dụng. Đối với NH thì đây là một khoản vốn huy động với giá rất rẻ nhưng bị động vì KH có thể rút ra bất kỳ khi nào không cần báo trước.
Tiết kiệm có kỳ hạn:
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thích hợp với mọi đối tượng KH có tiền nhàn rỗi chưa sử dụng trong một thời hạn xác định. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được gửi với thời gian tối thiểu theo thỏa thuận giữa NH và người gửi. Thông thường với loại tiết kiệm có kỳ hạn, kỳ hạn gửi tiền tiết kiệm càng dài thì lãi suất càng cao KH, không được rút trước hạn hoặc được rút nhưng phải báo trước hoặc phải chịu một khoản phí, lãi phạt.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn có tính ổn định cao, kỳ hạn thường dài và có khả năng tích lũy, gia hạn thêm. Chính vì vậy, các NH luôn đẩy mạnh thu hút nguồn tiền này và đã thiết kế các sản phẩm huy động rất đa dạng đáp ứng các nhu cầu tài chính khác nhau của mọi đối tượng KH ví dụ như tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm đầu tư, tiết kiệm nhận lãi định kỳ…. Các hình thức trả lãi và kỳ hạn đa dạng để thuận tiện cho người gửi, các kỳ hạn gửi từ 1 tuần đến 1 tháng, nhiều tháng, nhiều năm… Lãi có thể được trả trước, trả sau hoặc trả nhiều kỳ. Cách thức gửi và rút tiền cũng thuận tiện, KH có thể chuyền quyền sở hữu, ủy quyền rút tiền gốc hay lãi. Tiền tiết kiệm có thể được chuyển nhượng hay không được chuyển nhượng tùy theo quy định của NH nhưng thông thường ít có khả năng chuyển nhượng.
Phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá để huy động tiền nhàn rỗi là một dạng tiết kiệm có kỳ hạn của NH được thực hiện trong từng thời kỳ. Giấy tờ có giá có thể sử dụng làm công cụ chuyển nhượng trực tiếp hoặc thông qua thị trường chứng khoán, vì vậy một trong những điểm khác biệt của giấy tờ có giá so với tiền tiết kiệm thông thường là có thể mua bán trên thị trường chứng khoán, không được rút ra trước thời hạn và cũng không được gia hạn. Có một số loại chứng từ có giá chủ yếu sau:
– Chứng chỉ tiền gửi (certificates of deposit):
Chứng chỉ tiền gửi là một giấy biên nhận về số tiền gửi có ghi lãi suất hoặc phương thức xác định lãi suất. Chứng chỉ tiền gửi có thể được trả lãi suất theo thị trường hoặc lãi suất cố định tùy theo phương thức trả lãi của NH. Chứng chỉ tiền gửi có thể dưới dạng chứng chỉ dài hạn hay ngắn hạn và được các NH thường xuyên sử dụng. Chứng chỉ tiền gửi thích hợp với KH có thu nhập cao bởi không giống tiền gửi tiết kiệm, khi phát hành chứng chỉ tiền gửi thường ghi mệnh giá vì vậy KH phải có một số tiền tối thiểu mới mua được và khi đến hạn KH phải đến NH làm thủ tục rút ra đúng ngày, không được đáo hạn, nếu KH không đến nhận đúng hạn, khoản tiền gửi cũng không được tính thêm lãi kể từ ngày đáo hạn.
– Kỳ phiếu:
Kỳ phiếu là chứng chỉ vay nợ ngắn hạn (<12 tháng), được phát hành từng đợt theo nhu cầu vốn ngắn hạn của NH, có thời hạn, có mệnh giá và có mức lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm..
Mệnh giá của kỳ phiếu được ghi trên kỳ phiếu lúc phát hành và có mức tối thiểu, không quy định mức tối đa. Mệnh giá kỳ phiếu khác với giá bán kỳ phiếu. Giá bán kỳ phiếu khi phát hành có thể thấp hơn hoặc bằng mệnh giá tùy theo phương thức trả lãi kỳ phiếu. Kỳ phiếu có thể là kỳ phiếu đích danh ghi tên người sở hữu hoặc vô danh, không ghi tên người sở hữu trên kỳ phiếu. Kỳ phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ trái phiếu, vì vậy có tính “lỏng” rất cao. Kỳ phiếu được thanh toán gốc một lần khi đến hạn. Lãi của kỳ phiếu có thể được trả trước hoặc trả sau một lần hoặc trả định kỳ.
Theo quy định trong thời kỳ của mỗi NH, KH mua kỳ phiếu được kèm theo các ưu đãi như lãi suất bậc thang, tặng quà, dự quay thưởng.
– Trái phiếu NH:
Trái phiếu NH là chứng chỉ vay nợ dùng để huy động vốn trên 12 tháng, được phát hành từng đợt nhằm mục đích gọi vốn trung, dài hạn cho các dự án đầu tư trên đó có quy định rõ thời hạn, mệnh giá và lãi suất. Mệnh giá của trái phiếu được in sẵn trên trái phiếu lúc phát hành. Giống như kỳ phiếu, trái phiếu cũng có thể là trái phiếu vô danh hay đích danh. Lãi trái phiếu có thể được trả trước, trả sau một lần hoặc trả trước, trả sau theo định kỳ hàng năm tùy theo quy định của NH.
Nói chung hoạt động nhận gửi tiết kiệm dân cư của các NHTM rất đa dạng về sản phẩm, các sản phẩm luôn được cải tiến để đáp ứng nhu cầu đa dạng và nhỏ lẻ của số lượng rất lớn khách hàng là dân cư. Đây cũng là những thách thức đặt ra đòi hỏi NHTM phải cố gắng, nỗ lực phát triển sản phẩm dịch vụ và các tiện ích gia tăng đi kèm.
(b) Tiền gửi thanh toán
Hoạt động nhận tiền gửi thanh toán nhằm thu hút nguồn vốn giá rẻ và hơn nữa là phục vụ nhu cầu thanh toán, chi trả của dân cư. Khi mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH, KH có thể nộp tiền vào và rút ra bất kỳ lúc nào, sử dụng số tiền có trong tài khoản để chi trả thường xuyên hoặc định kỳ các nhu cầu thanh toán, vì vậy còn được gọi là tiền gửi theo nhu cầu (Demand deposits).
Với hoạt động này, NH không những thu hút được nguồn vốn rẻ mà thông qua đó các NH bán kèm các sản phẩm dịch vụ khác như cho vay thấu chi tài khoản, phát hành thẻ, các dịch vụ ngân hàng điện tử…,vì vậy đối với các NH, việc mở rộng thu hút nguồn tiền gửi này rất quan trọng.
Thường ở các nước phát triển, NHTM không trả lãi cho các khoản tiền gửi cho mục đích thanh toán, ngược lại NH thường thu phí dịch vụ như phí duy trì tài khoản, phí sử dụng các dịch vụ và công cụ thanh toán.
Tài khoản tiền gửi thanh toán cho phép chủ tài khoản có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau: Nhận tiền lương, thu nhập khác, nhận tiền kiều hối từ nước ngoài về, chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ, thanh toán sao kê thẻ, trả lãi vay…Chủ tài khoản có thể rút tiền mặt, phát hành séc, thẻ, chuyển khoản thanh toán, phát hành lệnh chi tự động, hoặc thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử từ tài khoản này. Số dư trung bình trên các tài tiền gửi thường không cao, nhưng ngược lại số lượng khách hàng lại rất lớn nên về tổng thể các NH vẫn có thể huy động được nguồn vốn khá lớn qua hoạt động này .
2. Hoạt động thanh toán
Đây là hoạt động điển hình và có vai trò chìa khóa cho hoạt động cung ứng dịch vụ của NHTM đối với KH nói chung và KH cá nhân nói riêng. Ngày nay dịch vụ thanh toán được tổ chức cung ứng cho người tiêu dùng qua các kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp dựa trên hệ thống kỹ thuật hạ tầng và công nghệ xử lý hiện đại. Với sự tiến bộ này, KH ngày càng nhận được những dịch vụ thanh toán có tính an toàn, chính xác và tiện ích cao, không những trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu.
(a)Thanh toán trong nước
Nền KT càng phát triển thì nhu cầu thanh toán hàng hóa dịch vụ càng gia tăng, hoạt động thanh toán trong nước của các NHTM đáp ứng nhu cầu rất lớn cho KH nói chung và dân cư nói riêng. Các KH có thể sử dụng dịch vụ này để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, kinh doanh chứng khoán, cho tặng người thân hay sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động, đầu tư tự động để sinh lời. KH có thể chuyển bằng tiền bản tệ hay ngoại tệ (theo quy định về quản lý ngoại hối của từng nước từ các nguồn khác nhau như tiền gửi thanh toán, tiền vay, tiền mặt…và qua các hình thức như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi hay lệnh chuyển tiền.
Phát hành và thanh toán séc trong nước
Séc là phương tiện thanh toán KDTM do người ký phát lập dưới hình thức chứng từ theo mẫu in sẵn, lệnh cho người thực hiện thanh toán trả không điều kiện một số tiền nhất định cho người thụ hưởng.
Các bên tham gia trong giao dịch séc bao gồm: người ký phát, người thanh toán là NH mà séc được ký phát để rút tiền và người thụ hưởng hoặc người được ủy quyền. NH trả tiền cũng đồng thời là NH thanh toán, còn NH mà người thụ hưởng nộp séc vào được gọi là NH nhờ thu.
Bằng phương thức thanh toán séc, người mua hàng trực tiếp trao séc cho người bán hàng. Trong quá khứ, việc chi trả bằng séc đòi hỏi người mua và người bán phải có sự tin tưởng hoặc quan hệ lâu dài với nhau nhưng trong nền KT hiện đại, sự hỗ trợ của kỹ thuật và pháp luật đã cho phép bỏ qua đòi hỏi đó nhằm mở rộng phạm vi sử dụng séc trong nước và quốc tế.
Uỷ nhiệm thu (ghi nợ)
Là lệnh của người chuyển tiền để ghi có tài khoản của người thụ hưởng tại NH hưởng và trích nợ tài khoản của người chuyển tiền tại NH phát lệnh. Hình thức thanh toán ủy nhiệm thu phải có thoả thuận thanh toán giữa người thụ hưởng và người chuyển tiền, thoả thuận này phải được thông báo bởi người thụ hưởng tới NH hưởng.
Ủy nhiệm thu thường được sử dụng để thanh toán các khoản cung cấp dịch vụ, hàng hóa định kỳ có dụng cụ đo lường hoặc hợp đồng sử dụng đã ký giữa người cung cấp và người sử dụng. Ví dụ như tiền điện, tiền nước, tiền thuê bao điện thoại, tiền thuê truyền hình cáp, tiền thuê nhà, các khoản vay tư nhân, tiền mua nhà trả góp. Trong thanh toán ủy nhiệm thu, người bán có thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho nhiều người mua. Vì vậy, NH người bán có thể cùng là NH của người mua nhưng có thể là NH khác do người mua có tài khoản tại các NH khác nhau. Trong trường hợp này, người mua có thể trực tiếp gửi chứng từ và hóa đơn đến các NH của người mua để nhờ thu hộ hoặc gửi hóa đơn và chứng từ cho NH của mình để nhờ NH này thu hộ. Ưu thế của ủy nhiệm thu là tạo khả năng ứng dụng công nghệ xử lý tự động cho khối lượng lớn KH trong các định kỳ thanh toán từ đó tạo ra những tiện ích cho KH, chủ động nguồn thu, tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời là lợi thế của NH phát triển công nghệ để thu hút KH mở rộng thị trường dịch vụ.
Uỷ nhiệm chi
Là lệnh của người chuyển tiền yêu cầu NH trích nợ tài khoản của người chuyển tiền tại NH phát lệnh và ghi có tài khoản của người thụ hưởng tại NH hưởng. Trong hình thức ủy nhiệm chi, KH ủy nhiệm cho NH phục vụ mình thực hiện trích tài khoản tiền gửi hoặc tiền vay chi trả một số tiền cho người hưởng là tổ chức hoặc cá nhân với các mục đích thanh toán hàng hoá, dịch vụ, hoặc lý do cá nhân. Đối với việc thanh toán cho mục đích thương mại thì uỷ nhiệm chi thường thực hiện đối với các khoản thanh toán mà người mua có thể kiểm tra chất lượng hàng hóa dịch vụ trước khi trả tiền, hoặc là có độ tin cậy rất cao. Ngày nay hình thức thanh toán này được KH biết đến rất phổ biến, KH có thể thực hiện uỷ nhiệm chi để chuyển tiền tới người hưởng bất kỳ tại một NH được chỉ định trong nước qua các kênh thanh toán điện tử liên NH, qua NH nhà nước, hoặc thanh toán online trong hệ thống một NH.
(b) Thanh toán nước ngoài
Chuyển tiền đi nước ngoài
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế, các nước đã có sự nới lỏng các giao dịch vãng lai, các cá nhân được chuyển tiền đi nước ngoài để thanh toán cho các mục đích được phép một cách dễ dàng. Ví dụ ở VN cá nhân là công dân VN có thể chuyển tiền ra nước ngoài cho các mục đích du học, chữa bệnh, du lịch, thừa kế, trả các chi phí, lệ phí…Cá nhân là người nước ngoài chuyển các thu nhập hợp pháp ở VN về nước. KH có thể sử dụng hai hình thức chuyển tiền chính sau đây:
+ Chuyển tiền bằng điện SWIFT: Chuyển tiền là hình thức thanh toán trong đó người chuyển tiền yêu cầu NH phục vụ mình thông qua NH đại lý hoặc chi nhánh ở nước ngoài chuyển trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. KH có thể sử dụng lệnh chuyển tiền để yêu cầu NH chuyển một số tiền cho người hưởng ở nước ngoài bằng điện SWIFT cho các mục đích được phép. Dịch vụ chuyển tiền này đã gia tăng đột biến trong những năm gần đây giúp cho KH thực hiện chuyển tiền nhanh chóng và an toàn, đồng thời các NH đã thu được một khoản phí khá lớn từ dịch vụ này. Việc chuyển tiền của các NHTM được thực hiện bằng cách liên hệ với NH đại lý thuận tiện ở nước ngoài qua mạng SWIFT và thông qua tài khoản NOSTRO (tài khoản của NHTM mở tại NH bạn ở nước ngoài).
+ Chuyển tiền bằng phát hành hối phiếu NH: Đây là một công cụ thanh toán tương tự như séc, được NH phục vụ người chuyển tiền ký phát theo yêu cầu của KH để chỉ định NH ở nước ngoài chi trả cho người hưởng một khoản thanh toán được bảo đảm, người thụ hưởng được bảo đảm chắc chắn hối phiếu sẽ được thanh toán khi xuất trình. Hối phiếu là phương tiện thanh toán hữu hiệu sau tiền mặt, vì nó giúp tránh phải mang một lượng tiền lớn để thanh toán.
Chuyển tiền đến từ nước ngoài
+ Dịch vụ chuyển tiền kiều hối: Cá nhân có thể nhận tiền chuyển từ nước ngoài về thông qua các NHTM (chuyển tiền kiều hối), đây là một dịch vụ chuyển tiền khá an toàn và thuận tiện. KH có thể mở tài khoản để nhận tiền hoặc nhận tiền theo chứng minh thư. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối của các NHTM là một kênh mang lại ngoại tệ mạnh cho đất nước, thúc đẩy sự phát triển của khu vực tài chính và sự tăng trưởng của khu vực tư nhân với nguồn cung cấp ngoại tệ ổn định, không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân chuyển từ nước ngoài vào. Đặc biệt với dịch vụ này, NH đã thu hút được một lượng lớn KH mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại NH. Từ đó mang lại thu nhập cho NH qua việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi, thu phí chuyển tiền, ở các dịch vụ đi kèm và sản phẩm trọn gói như: phát hành thẻ, gửi tiết kiệm ngoại tệ, vay vốn đi lao động xuất khẩu, …
+ Dịch vụ nhận séc nhờ thu do NH nước ngoài phát hành: NHTM triển khai dịch vụ nhờ thu séc do một cá nhân, tổ chức hay NH nước ngoài phát hành cho các cá nhân là người hưởng trên séc. Người thụ hưởng séc nhận được séc có thể là quà biếu, quà tặng hoặc sau khi cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho đối tác nước ngoài. Đó là lệnh hứa trả tiền, sau khi làm thủ tục nhờ NHTM thu hộ, NH nhận séc đó sẽ gửi cho một NH đại lý của mình ở nước ngoài để nhờ thanh toán sau khi đã trừ một khoản phí nhất định theo thoả thuận, số tiền còn lại trên séc sẽ được NH nhận séc nhờ thu thanh toán cho người hưởng có tên trên séc.
Xem thêm: Khái niệm hoạt động bán lẻ của ngân hàng thương mại
3. Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của các NHTM trên thế giới ngày càng gia tăng đột biến về số lượng khách hàng dân cư sử dụng cũng như doanh số thanh toán vì những tiện ích mà thẻ ngân hàng đem lại như tính an toàn, bảo mật, phạm vi sử dụng toàn cầu, không hạn chế về thời gian sử dụng dịch vụ… Các NHTM tại các nước đã coi sự thành công trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ là thành công trong hoạt động bán lẻ của mình.
Thẻ ngân hàng thường được làm bằng plastic theo kích cỡ chuẩn quốc tế (8,5cm*5,3cm) và bao gồm ít nhất các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của nhà phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên chủ thẻ. Để bảo đảm an toàn khi sử dụng thẻ, mỗi thẻ đều có mã PIN. Thông qua việc sử dụng thẻ NH, khách hàng sử dụng số tiền được phép chi tiêu trong tài khoản tiền gửi của mình hoặc trong hạn mức tín dụng được cấp để rút tiền mặt, thanh toán hóa đơn, chuyển khoản, mua hàng hóa trên mạng…Khoa học công nghệ càng phát triển, các ứng dụng cho thẻ ngày càng nhiều, tại các nước phát triển ngoài những tính năng trên, thẻ NH (loại thẻ EMV hay thẻ chip) còn được tích hợp với các thông tin cá nhân khác và đồng thời là thẻ sinh viên, thẻ thư viện, thẻ ra vào cơ quan …
Trên thực tế, thông thường có hai loại thẻ là ghi nợ (Debit Card), thẻ tín dụng (Credit Card), ngoài ra còn có thẻ thanh toán (Charge Card)…
Thẻ ghi nợ
Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ là hoạt động quan trọng trong các hoạt động bán lẻ của NHTM. Bất cứ cá nhân nào có tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại NH đều có thể phát hành thẻ ghi nợ và sử dụng số tiền gửi trong tài khoản thanh toán của mình qua hệ thống kết nối trực tuyến với ATM, POS hay KIOS. Trường hợp KH muốn sử dụng thẻ ghi nợ của một NH mà chưa có tài khoản tiền gửi tại NH đó thì bắt buộc phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán. Như vậy hoạt động phát hành thẻ ghi nợ sẽ thu hút số lượng lớn KH mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH
Hiện nay các NHTM thường phát hành hai loại thẻ ghi nợ là thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ ghi nợ nội địa.
+ Thẻ ghi nợ quốc tế: là thẻ có phạm vi chi tiêu toàn cầu, có khả năng thanh toán trên internet, tuy nhiên khả năng chi tiêu hạn chế hơn so với thẻ tín dụng và có thể rủi ro hơn trong quá trình sử dụng so với thẻ tín dụng. Vì vậy đối tượng sử dụng chủ yếu tập trung vào các đối tượng có nhu cầu rút tiền mặt, thanh toán ở nước ngoài trong thời gian ngắn hạn.
+ Thẻ ghi nợ nội địa: Có phạm vi chi tiêu trong nội địa, chủ yếu để rút tiền mặt, chuyển khoản và phục vụ mục đích làm thẻ nhận lương qua tài khoản, chuyển và nhân tiền…Thẻ ATM là hình thức đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản NH từ máy ATM.
Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ và mã số cá nhân (PIN) để tiếp cận tài khoản cá nhân của mình mọi nơi, mọi lúc và thực hiện nhiều giao dịch tại máy ATM, như xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, thanh toán một số dịch vụ như tiền điện, tiền điện thoại, chi tiêu trên các trang web… Hệ thống máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản của mình ngay tại các máy ATM và ghi có tài khoản KH ngay lập tức, KH cũng có thể thanh toán các loại hóa đơn, mua thẻ game, mua vé… ngay tại máy ATM và tự mình thực hiện các dịch vụ NH khác.
Sử dụng thẻ mang lại rất nhiều tiện ích cho chủ thẻ, như: tiết kiệm được thời gian, chi phí và bảo đảm an toàn cho chủ thẻ thực hiện thanh toán các giao dịch mà không phải mang theo một lượng lớn tiền mặt. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của các quan hệ KT – xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng có nhiều người sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch kinh doanh thương mại và dân sự.
Ở các nước tiên tiến, các tổ chức phát hành thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép KH có thể thực hiện giao dịch tại nhiều máy ATM hơn. Ở VN, hiện nay đã kết nối hai liên minh thẻ là SMARTLINK và BANKNET cho phép KH có thẻ ATM của các NH trong liên minh sử dụng tại các máy ATM của các NH khác rất thuận tiện cho KH.
Thẻ tín dụng
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng đặc biệt phát triển tại các nước phát triển. Thẻ tín dụng là loại thẻ mà chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng nhất định trên cơ sở độ tín nhiệm hay giá trị tài sản bảo đảm của mình. Đây là hình thức thanh toán tiên tiến, có độ an toàn cao, thanh toán nhanh, thuận tiện, văn minh, là loại phương tiện thanh toán dễ bảo quản, cất giữ khi mang theo đặc biệt là sử dụng chi tiêu và thanh toán ở nước ngoài. Với xu hướng toàn cầu hoá và thương mại điện tử phát triển hiện nay thì việc sử dụng thẻ sẽ gia tăng nhanh chóng.
KH có thể sử dụng thẻ tín dụng để rút tiền mặt khi cần thiết, chi tiêu tại các POS, máy ATM, internet khi các điểm trên có Logo của loại thẻ đó. Chủ thẻ sử dụng thẻ tại các điểm trên phải tuân theo các qui định của Tổ chức thẻ quốc tế và của từng NHTM. KH sử dụng loại thẻ này chủ yếu dùng trong thanh toán, hạn chế rút tiền mặt vì phí rút tiền mặt rất cao.
4. Hoạt động cho vay
Cho vay đối với khách hàng cá nhân và hộ gia đình là các khoản cho vay nhỏ lẻ nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu, mua sắm của cá nhân và hộ gia đình. Khoản tiền vay này thường được sử dụng vào những mục đích như xây dựng, sửa chữa và mua nhà ở, mua đồ dùng gia đình và phương tiện đi lại, các chi phí cá nhân như chi phí du lịch, du học… Có các hình thức cho vay như sau sau:
Cho vay trả một lần:
Là các khoản vay của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Phần lớn các khoản này có quy mô nhỏ và dùng để chi trả các chuyến đi nghỉ, mua sắm đồ dùng, sửa chữa ô tô và nhà ở, chi trả viện phí.
Cho vay trả góp:
Đây là hình thức tín dụng qua đó NH cho phép KH trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. NH thường cho vay trả góp thông qua hạn mức nhất định. Đối với cho vay trả góp KH thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Cho vay trả góp là một loại hình cho vay tiêu dùng phổ biến trên thế giới. Tại VN, nhiều NH và công ty tài chính đã triển khai dịch vụ cho vay trả góp. Loại hình cho vay này giúp KH vay có thể biết chính xác số tiền KH phải trả đều hàng tháng (cả gốc và lãi).
Có hai cách thức xác định lịch trả góp:
– Trả góp theo nguyên tắc lãi trả theo dư nợ gốc ban đầu:
Ưu điểm của phương thức trả góp theo dư nợ thực tế: Phương thức tính lãi hợp lý theo dư nợ giảm dần giúp KH cảm thấy thoải mái hơn. Số tiền trả góp cố định hàng tháng (cả gốc và lãi) giúp KH chủ động hơn trong kế hoạch chi tiêu của mình. Tuy nhiên hiện tại, rất ít NH đã triển khai cho vay trả góp đúng theo nguyên tắc trả góp này. Một lý do quan trọng có thể là do hệ thống chưa hỗ trợ việc theo dõi cho vay trả góp theo công thức này.
Cho vay cầm cố:
Là hình thức mà qua đó người nhận tài trợ của NH phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho NH trong thời gian cam kết, thường là thời gian nhận tài trợ. Điểm cơ bản là cầm cố thích hợp với những tài sản NH có thể kiểm soát, bảo quản tương đối chắc chắn và bên cạnh đó việc NH nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của bên nhận tài trợ. Ví dụ như các chứng khoán, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, kim loại quí và các giấy tờ có giá. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý và không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Cầm cố cũng có thể được áp dụng đối với hàng hoá, trong trường hợp này NH thường chấp nhận các loại hàng hoá ít chịu tác động của môi trường (tính chất lý hoá và công dụng) trong thời gian cầm cố.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, NH kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của KH, khả năng chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại. NH cùng với KH định giá vật cầm cố, ký hợp đồng cầm cố, qui định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ của NH trong việc quản lý, giữ gìn vật cầm cố, quyền của NH phát mại vật cầm cố khi KH vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ.
Cho vay thế chấp:
Là hình thức mà qua đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho NH nắm giữ trong thời gian cam kết. Điểm khác biệt của thế chấp so với cầm cố là nhiều tài sản của KH trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của NH song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động, sản xuất-kinh doanh. Đối với những tài sản này NH không thể cầm cố. Các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán và hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng cũng không đơn giản.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng thế chấp, NH phải xem xét kỹ vật thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp (ký cùng với hợp đồng tài trợ) phải có phần mô tả vật thế chấp. NH do vậy cần phải có các nhà chuyên môn (hoặc đi thuê) đủ khă năng xác định giá trị tài sản đảm bảo.
Sau khi định giá, NH và KH phải thoả thuận về nội qui sử dụng đảm bảo, quyền của NH giám sát đảm bảo, phát mại đảm bảo khi KH vi phạm hợp đồng tài trợ.
Cho vay thẻ tín dụng:
Theo hình thức này, NH chấp thuận cho cá nhân được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng thể hiện ở hạn mức thẻ để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt. Cho vay thẻ tín dụng là một loại tín dụng tuần hoàn cấp cho chủ thẻ tín dụng. Mỗi chủ thẻ tín dụng được cấp một hạn mức tín dụng nhất định căn cứ vào độ tín nhiệm, khả năng bảo đảm chi trả hay giá trị tài sản bảo đảm của chủ thẻ. Khả năng bảo đảm chi trả được xác định dựa trên việc tổng hợp các thông tin khác nhau như: Thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ, địa vị xã hội của KH, cơ quan công tác. Từ thẩm định và phân loại KH mà các NH cũng như các tổ chức tài chính đưa ra nhiều sản phẩm thẻ tín dụng đa dạng: Ví dụ thẻ tín dụng Vàng (Gold) và thẻ Chuẩn (Classic/Standard).
Khi sử dụng hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng, chủ thẻ phải thanh toán số tiền sử dụng như hợp đồng cam kết với NH. Thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho NH tuỳ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau. Khi đến hạn thanh toán, nếu khoản chi tiêu được thanh toán đầy đủ, đúng hạn thì chủ thẻ sẽ được miễn toàn bộ lãi đối với khoản tiền đã sử dụng. Nếu hết thời gian này mà chủ thẻ chưa thanh toán cho NH thì phải chịu những khoản phí và lãi chậm trả.
Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho NH, hạn mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu, đây chính là tính chất “tuần hoàn” (revolving) của tín dụng thẻ.
Cho vay theo hạn mức thấu chi:
Đây là hoạt động cho vay theo hình thức cho vay tín chấp, KH có nhu cầu vay vốn và đáp ứng các điều kiện cho vay theo hạn mức thấu chi tài khoản thanh toán có thể ký hợp đồng thỏa thuận với NH và được phép chi vượt một số tiền nhất định so với số tiền hiện có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình. Đây là hình thức vay vốn được áp dụng nhiều trên thế giới vì vay theo hạn mức thấu chi tạo điều kiện cho KH chủ động và linh hoạt hơn trong việc sử dụng vốn. Tuy nhiên hạn mức cho vay thường thấp và lãi suất vay thường cao và được tính theo ngày.
5. Chiết khấu chứng từ có giá
Đây là hoạt động mà qua đó NH mua các giấy tờ có giá ngắn hạn của người thụ hưởng trước khi các giấy tờ có giá này đến hạn thanh toán. Đối tượng chiết khấu là các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm…
Các giấy tờ có giá này đảm bảo thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng; chưa đến hạn thanh toán; được phép giao dịch (mua, bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, bảo lãnh và các giao dịch hợp pháp khác); được thanh toán theo quy định của tổ chức phát hành. Các NHTM có thể thực hiện chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là phương thức mua hẳn giấy tờ có giá theo giá chiết khấu, và khách hàng chuyển giao ngay quyền sở hữu giấy tờ có giá đó cho tổ chức tín dụng. Khi giấy tờ có giá đó đến hạn thanh toán, tổ chức tín dụng xuất trình giấy tờ có giá để thanh toán với tổ chức phát hành. Chiết khấu có thời hạn là việc các tổ chức tín dụng mua giấy tờ có giá theo thời hạn, đồng thời kèm theo cam kết của khách hàng về việc mua lại giấy tờ có giá đó vào ngày đến hạn chiết khấu. Trường hợp hết thời hạn chiết khấu, mà khách hàng không thực hiện việc mua lại giấy tờ có giá, thì tổ chức tín dụng là chủ sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ giấy tờ có giá đó.
Khi các NHTM nhận chiết khấu, khách hàng chuyển giao ngay giấy tờ có giá, đồng thời làm thủ tục chuyển quyền sở hữu giấy tờ có giá cho NH.
6. Các hoạt động ngân hàng bán lẻ khác
Ngoài các hoạt động trên đây, các NHTM trên thế giới đã mở rộng hoạt động ngân hàng bán lẻ qua việc cung cấp các dịch vụ như bảo quản vật có giá (dịch vụ két sắt), tư vấn đầu tư, ủy thác đầu tư, bảo lãnh, mua bán séc du lịch và ngoại tệ…KH cá nhân ngày càng có nhu cầu cao về các dịch vụ này, đặc biệt ở các nước phát triển.